Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Trãi » Ức Trai thi tập » Thơ làm sau khi thành công và làm quan ở triều
Đăng bởi Vanachi vào 06/05/2006 05:53, đã sửa 3 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 13/04/2024 01:22
海口有仙山,
前年屢往還。
蓮花浮水上,
仙境墜人間。
塔影簪青玉,
波光鏡翠鬟。
有懷張少保,
碑刻蘚花斑。
Hải khẩu hữu tiên san,
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh truỵ nhân gian.
Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu Bảo,
Bi khắc tiển hoa ban.
Gần cửa biển có núi tiên,
Năm trước đã nhiều lần đi về.
Như bông hoa sen nổi trên mặt nước,
Đúng là cảnh tiên rớt xuống cõi trần.
Bóng tháp như cài trâm ngọc xanh,
Ánh sáng trên sóng như gương soi búi tóc biếc.
Chạnh nhớ tới ông Trương Thiếu Bảo,
Tấm bia đá nói về ông đã lốm đốm rêu phong.
Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi Vanachi ngày 05/05/2006 05:53
Có 1 người thích
Cửa biển có núi tiên,
Năm xưa lối về quen.
Non bồng nơi cõi tục,
Mặt nước nổi đài sen.
Bóng tháp ngời trâm ngọc,
Tóc mây gợn ánh huyền.
Chạnh nhớ Trương Thiếu Bảo,
Bia rêu lốm đốm nền.
Gửi bởi Vanachi ngày 13/04/2007 18:38
Có ngọn núi tiên đầu cửa biển
Mấy lần năm trước đã qua đây
Lênh đênh nước tựa đài sen nở
Tiên cảnh đâu như lạc chốn này
Bút tháp tựa trâm cài ngọc biếc
Tưởng chừng nước rọi làn tóc mây
Cảnh xui hồi tưởng ngài Thăng Phủ
Bia cổ rêu phong một lớp dày.
Gửi bởi Vanachi ngày 03/09/2008 23:23
Cảnh động ngay cửa biển,
Năm nào vẫn dạo rong.
Hoa sen trôi mặt nước,
Cõi tục nổi non bồng.
Bóng tháp cài trâm ngọc,
Tóc mây chiếu kính sông.
Nhớ xưa Trương thiếu bảo,
Bia khắc đốm rêu phong.
Gửi bởi bangpro ngày 23/03/2010 08:14
Cửa biển có non tiên
Từng qua lại mấy phen
Cảnh tiên rơi cõi tục
Mặt nước nổi hoa sen
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sông ánh tóc huyền
Nhớ xưa Trương thiếu bảo
Bia khắc dấu rêu hoen
Gửi bởi phuhoang4142 ngày 19/05/2012 08:39
Ngọn núi Tiên vàm biển
Bao năm vẫn lại qua!
Đài sen trồi mặt nước
Tiên cảnh cõi người ta!
Bóng tháp vươn trâm ngọc
Tóc xanh rực sóng hoa!
Nhớ về Trương Thiếu Bảo
Bia khắc phủ rêu nhoà!
Ngôn ngữ: Chưa xác định
Gửi bởi cuminhson ngày 21/05/2013 23:34
Ngoài biển xa ấy có núi tiên,
Nhớ xưa qua đó mấy bận liền.
Lấp ló sen hồng trên mặt nước,
Giường như tiên cảnh hóa tự nhiên.
Hồ xanh tháp chiếu như trâm ngọc,
Ánh sóng mơ hồ phản tóc tiên.
Nhớ hoài về ông Trương Tiếu Bảo,
Trên bia rêu phủ khắp một miền.
Gửi bởi hongha83 ngày 17/06/2016 17:48
Núi tiên ở cửa biển,
Năm trước luôn qua chơi.
Bông sen nổi mặt nước,
Cảnh tiên giữa cõi đời.
Bóng tháp trâm ngọc giắt,
Ánh sóng tóc mây soi.
Nhớ sao Trương Thiếu Bảo,
Bia đá chớm rêu rồi
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 29/07/2017 06:40
Nguyễn Trãi viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Quả thật Ức Trai đã đi nhiều nơi, thăm nhiều danh thắng. Với lòng yêu thiên nhiên say đắm, với hồn thơ rộng mở, nhạy cảm và tinh tế, tới đâu Nguyễn Trãi cũng có thơ về cảnh đẹp non sông đất nước. Người đọc ngày nay có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam rất phong phú và đa dạng qua tập thơ chữ Hán – Ức Trai thi tập: núi Côn Sơn, núi Yên Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, núi Lam Sơn... Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều thơ về các địa danh ở Ninh Bình, tạo nên một quần thể danh thắng của vùng “vịnh Hạ Long cạn” này: núi Dục Thuý, cửa biển Thần Phù, trấn Vịnh Doanh.
Trong quần thể danh thắng đó, nổi bật lên là Dục Thuý sơn. Trước đây núi có tên là Sơn Thuý. Tên Dục Thuý là do Trương Hán Siêu đặt. Có người giải thích núi giống hình chim trả, lại ở trên bờ sông, nên gọi là Dục Thuý, với nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thuý: chim trả). Không rõ Trương Thiếu bảo gọi là Dục Thuý sơn có phải vì lẽ đó không, hay chỉ đơn thuần là núi tắm trong xanh biếc (thuý. xanh biếc). Dù thế nào thì tên gọi Dục Thuý sơn cũng rất đẹp và thơ mộng, người chưa được đến thăm có thể qua tên mà hiểu cảnh.
Từ lâu Dục Thuý sơn đã là đề tài hấp dẫn của thi ca. Nhiều thi sĩ lừng danh đã có thơ về danh thắng này như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh. Lê Thánh Tông, Tản Đà... Tuy nhiên tình của Nguyễn Trãi đối với Dục Thuý sơn, thơ của Nguyễn Trãi về Dục Thuý sơn vẫn có những nét riêng.
Nguyễn Trãi viết Dục Thuý sơn với hai nguồn cảm hứng: cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Ở nguồn cảm hứng nào người đọc cũng thấy những nét riêng, độc đáo của Ức Trai.
Trong dòng cảm hứng yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp đất nước, tác giả đến với Dục Thuý sơn. Nhưng Dục Thuý sơn với Ức Trai dường như có mối duyên riêng, nhà thơ thường tới viếng thăm:
Tiền niên lũ vãng hoànKhông rõ trong đời mình Ức Trai bao lần đặt chân lên núi Dục Thuý, nhưng ở thơ chữ Hán đã có lần ông nhắc tới:
(Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần)
Dục Thuý vũ tình phong tự ngọcNhà thơ có một ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, đó là “núi tiên”, “cảnh tiên”. Trong một đoạn thơ ngắn, thi sĩ hai lần dùng từ tiên làm định ngữ để nói về núi Dục Thuý, về cảnh Dục Thuý. Thơ Đường có phép kị trùng chữ. Nhưng ở đây để làm nổi bật vẻ đẹp thần diệu của Dục Thuý sơn. Nguyễn Trãi đã bất châp luật kiêng kị đó đế phóng bút dùng hai chữ tiên. Trong cảm nhận ngôn ngữ của người Việt, tiên thường gợi lên sự thần diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên) sự sung sướng, hạnh phúc (sướng như tiên), vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ tiên trong “núi tiên”. “cảnh tiên” gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thuý sơn. Người không mang cảm quan tôn giáo, nước cảnh đẹp cũng như đang vào cõi mộng, cõi tiên. Cái hiện hữu được khẳng định (hữu tiên san) càng làm nổi bật cái hư ảo, kì diệu:
(Dục Thuý mưa tan non tựa ngọc)
(Vọng Doanh)
Tiên cảnh truỵ trần gianDục Thuý sơn là sáng tạo tuyệt vời của hoá công, không phải cho cõi trần, không phái từ cõi trần mà cho tiên giới, từ liên giới. Một chút “vô thức” (đánh rơi) đã tô điểm thêm vẻ đẹp hạ giới.
(Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần)
Liên hoa phù thuỷ thượngVề mặt liên tưởng, nhà thơ đã có liên tưởng khá xác thực – núi trên dòng sông với đoá sen trên mặt nước. Về mặt nội dung thẩm mĩ, hoa sen là biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất phù hợp với cảnh tiên, non tiên.
(Núi tựa (như) đoá hoa sen nổi trên mặt nước)
Tháp bảo trâm thanh ngọcKhoan nói tới những nét đặc sắc đầy tính nhân văn trong hình tượng thơ Ức Trai. Hãy nói đến người đầu tiên, sáng tạo ra hình ảnh này – nhà thơ Trương Hán Siêu:
Ba quang kính thuý hoàn.
(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như cái) cái trâm bằng ngọc xanh
Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tự như gương soi mái tóc xanh (biếc).
Trung lưu quang tháp ảnhThi sĩ lớn đời Trần chú ý đến vẻ đẹp của bóng tháp in trên dòng sông, kể cũng đã là người biết thưởng thức, biết phát hiện ra vẻ đẹp. Tuy nhiên, ngọn tháp trong thơ và trong văn Trương Hán Siêu vẫn là hình ành ngọn tháp thật, chưa thấm hồn người: “Tháp xây bốn tầng, đêm toả hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuý). Và nếu có cảm xúc thì đó là cảm xúc về vẻ đẹp kì vĩ của ngọn tháp: “Tháp cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ đẹp của non sông, tranh công xây dựng cùng tạo hoá” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuỷ). Cảm xúc của Trương Hán Siêu là cảm xúc của người yêu thiên nhiên, có pha chút hứng khởi, tự hào, chưa có gì đặc biệt.
(Giữa dòng in bóng tháp)
(Bài Dục Thuý sơn của Trương Hán Siêu)
Hữu hoài Trương Thiếu bảo“Hữu hoài” dịch là “nhớ xưa”, chưa lột tả được cảm xúc hoài niệm về quá khứ có pha chút hoài cổ của nhà thơ. Nguyễn Trãi nhớ về Trương Hán Siêu và ngậm ngùi khi thấy bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu phủ. Tâm trạng Ức Trai có phần giống tâm trạng Trương Hán Siêu thuở trước khi thấy cảnh Dục Thuý “sự hưng vong thành bại mới trải hai trăm mấy mươi năm mà đã trở thành dấu vết cũ kĩ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thuý). Đó là cảm hứng hoài cổ bắt nguồn từ lẽ hưng vong của tạo hoá. Tuy nhiên, cảm hứng hoài cổ của Nguyễn Trãi khác cảm hứng hoài cổ mà ta thường gặp ở nhiều tác giả văn học trung đại. Trong thơ Ức Trai luôn có sự đổi lập giữa tạo hoá vĩnh hằng và con người trong khoảnh khắc:
Bi khác tiển hoa ban
(Nhớ ông Thiếu bảo người họ Trương
Bia khắc (của ông) đã lốm đốm hoa rêu)
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,Ở bài Dục Thuý sơn cũng có sự đối lập nói trên: cảnh vật còn đây, bia đá còn đây, nhưng nét chữ đang mờ dần bởi rêu phủ và Trương Thiếu bảo không còn. Con người – một thực thể khát khao sống, khát khao yêu thì cuộc đời “hữu hạn”, còn tạo vật – thực thể vô tri lại tồn tại vĩnh hằng. Nguyễn Trãi buồn, xót xa, ngậm ngùi vì lẽ đó. Cũng chính vì vậy mà nỗi buồn hoài cổ của Nguyễn Trãi là nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Anh hùng hữu hận, diệp tiêu tiêu
(Xưa nay thời gian không cùng (như) dòng sông bát ngát,
Đời anh hùng mang mối hận (như) lá rụng veo veo).
(Vãng hứng)
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 29/07/2017 06:55
Dục Thuý sơn là tên cũ của núi là Băng Sơn. Về đời Trần, Trương Hán Siêu lên chơi núi này, mới đổi thành Dục Thuý sơn (núi chim trả tắm); ngày nay gọi là núi Non Nước, thuộc thị xã Ninh Bình. Dục Thuý Sơn là một thắng cảnh, từng được nhiều tao nhân mặc khách đến thăm và làm thơ ca ngợi. Trên núi vốn có chùa và tháp rất đẹp; núi lại gần cửa biển, có sông Vân uốn quanh, Sông Vân núi Thuý là cảnh nên thơ, rất hữu tình. Sách “Đại Nam nhất thống chí" có ghi: “phía hắc núi (Dục Thuý) có động, trong động có đền thờ Tam phủ, sườn núi có một tảngđá gần sông có khắc ba chữ “Hám Giao Đình”, phía tây nam núi có đền thờ Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, trên đỉnh có chùa...”
Biển dâu biến đổi, nay chùa xưa tháp cũ đã đổ nát, biển lùi xa hàng chục cây số. Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Tản Đà... đều làm thơ vịnh Dục Thuý sơn – núi Non Nước. Bài thơ này rút trong Ức Trai thi tập của Nguyễn Trãi.
Bài thơ nói về cảnh sắc thần tiên núi Dục Thuý và nỗi cảm hoài của Ức Trai.
Đọc “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ta thấy Nguyễn Trãi đã từng thăm thú nhiều nơi. Lúc thì “nhẹ cánh buồm thơ vượt Bạch Đằng”, lúc thì lên núi Long Đại, say mê ngắm hang động, ao hồ:
Ngao đội núi lên thành động đấyLúc thì hành hương về chùa Hoa Yên trên đỉnh núi Yên Tử cao xanh, gột rửa bụi trần, thảnh thơi giữa rừng trúc, hang đá:
Kình bơi biển lấp hoá ao rồi
(Núi Long Đội)
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,Trong những năm tháng “bình Ngô“, Nguyễn Trãi đã từng mang gươm đi khắp mọi miền đất nước, sau này, đất nước thanh bình, ông lại mang bầu rượu túi thơ đi thăm cảnh núi sông tráng lệ. Riêng Dục Thuý sơn đã nhiều lần in dấu ấn nhà thơ.
Bao dãi tua châu đá rủ mành
(Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử)
Cửa biển có non tiên,Người đọc như đang cùng thi nhân du mộng vào cõi thần tiên. Vừa ảo, vừa thực, hồn thơ kì thú, lâng lâng, ta như đang được “chiếm lĩnh " cõi tiên nơi trần gian. Câu 1 đã nói “non tiên” giữa cửa biển, câu 4 nói rõ thêm núi Dục Thuý "như cảnh tiên rơi xuống cõi trần gian” (tiên cảnh truỵ trần gian). Hai hình ảnh “tiên san” và “tiên cảnh” hô ứng nhau, bổ trợ nhau, ý thơ và cảm xúc mở rộng, phát triển nhằm ca ngợi Dục Thuý sơn là một thắng cảnh, đẹp kì lạ, hiếm có trên đất nước ta.
Từng qua lại mấy phen
Liên hoa phù thuỷ thượng,Để hiệp vần, Khương Hữu Dụng đã đảo lại vị trí 2 câu thơ 3, 4; chất thơ nhạt đi nhiều, cấu trúc nội tại của tứ thơ bị phá vỡ:
Tiên cảnh truỵ trần gian.
Cảnh tiên rơi cõi tục,Học giả Đào Duy Anh đã dịch: “Hoa sen trôi mặt nước, Cõi tục nổi non bồng”. Hai câu luận (5, 6) tả tháp trên núi và ánh sáng trên mặt sông, vẫn là bút pháp tạo hình bằng hai hình ảnh ẩn dụ mĩ lệ. Bóng ngọn tháp trên núi tựa như cái trâm bằng ngọc xanh (trâm thanh ngọc). Ánh sáng lấp lánh trên sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc (kính thuý hoàn). Trâm, tóc và gương ấy đều mang màu sắc rất đẹp (thanh ngọc, thuý hoàn), vì là của tiên nữ (nơi non tiên, cảnh tiên). Cảnh sắc rất ngoạn mục. Phép đối được sáng tạo qua vẩn thơ như hai bức tranh của trường phái “ấn tượng”:
Mặt nước nổi hoa sen.
Tháp ảnh trâm thanh ngọc,Núi Dục Thuý có sông Vân uốn quanh. Cách đây năm, sáu trăm năm, núi còn nằm trên cửa biển. Trên núi có chùa và tháp. Bàn tay của con người góp phần điểm tô cho cảnh núi non, sông biển thêm đẹp. Trương Hán Siêu từng ca ngợi: "Giữa dòng long lanh bóng tháp” (Dục Thuý sơn khắc thạch); “Tháp gồm bốn tầng, đêm toả hào quang”, xa gần đều trông thấy... cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ hùng vĩ cho non sông...” (Dục Thuý sơn Linh Tế tháp kí) - Phát triển mạch cảm xúc của tiền nhân, trong bài thơ này, Ức Trai miêu tả cảnh sắc núi Dục Thuý bằng những nét vẽ tài hoa, với tất cả tâm hồn người nghệ sĩ: một cái nhìn mới độc đáo, mang cốt cách phong tình, đầy tính chất nhân văn.
Ba quang kính thuý hoàn.
(Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sông ánh tóc huyền.)
Dẽ cố ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khấp đòi phương
(Bảo kính cảnh giới – 43)
Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứtGần một thế kỉ sau lên chơi núi Dục Thuý, khi người xưa đã khuất từ lâu rồi, đọc bia tháp Linh Tế, nhà thơ xúc động nhìn nét chữ khắc đã mờ dưới làn rêu. Vật đổi sao dời. Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Đất nước ta đã trải qua, bao biến cố, bao triều đại hưng vong, suy thịnh... Ức Trai bồi hồi nhớ đến công đức người xưa:
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng’
(Cửa biển Bạch Đằng)
Nhớ xưa Trương Thiếu bảo,Trương Hán Siêu là bậc danh sĩ cao khiết, nhà thơ lỗi lạc đời Trần. Tên tuổi ông gắn liền với Dục Thuý sơn, với những bài kí rất nổi tiếng. Ông đã được thờ ở Văn Miếu, Thăng Long. Thiếu bảo là danh vị cao quý vua Trần ban cho ông. Ức Trai không gọi tên mà chỉ nhắc đến họ, đến danh vị Trương Hán Siêu là một cách xưng hô đầy trọng vọng, cung kính. Đúng là trông núi, ngắm tháp mà bùi ngùi thương nhớ người xưa. Hình bóng Trương Thiếu bảo còn phảng phất đâu đây. Lời thơ hàm súc, nỗi cảm hoài sâu lắng mênh mông. Hình ảnh bia đã phủ đầy rêu gợi tả cảm xúc hoài cổ đậm đà tình nghĩa. Đến chơi núi, nhìn tháp và chùa mà nhớ đến người xưa. Tấm lòng "Uống nước nhớ nguồn” thấm đẫm qua một vần thơ đẹp. Hai chữ “nhớ xưa” (hữu hoài) biểu lộ cái tâm trong trẻo của Ức Trai.
Bia khắc dấu rêu hoen.
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 17/06/2018 10:14
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Lương Trọng Nhàn ngày 07/09/2020 19:41
Gần cửa biển là một núi tiên,
Năm xưa qua lại mấy bận liền.
Hoa sen đầy nổi trên mặt nước,
Cõi tục đúng non đẹp cảnh tiên.
Bóng tháp tựa như cài trâm ngọc,
Sóng soi trên tóc ánh màu huyền,
Ngài Trương Thiếu Bảo nhớ hoài tới,
Bia đá rêu phong một lớp liền.
Trang trong tổng số 2 trang (13 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối