Đăng bởi Vanachi vào 07/11/2005 03:34
Nguyễn Vỹ đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoè inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì.
Táo bạo thì táo bạo thực, nhưng trong văn thơ táo bạo không đủ đưa người ta ra khỏi cái tầm thường. Khi Nguyễn Vỹ hô hào:
Ta hãy truyền một thi hứng mới cho thế kỷ hai mươi,người có biết rằng trong hai câu này không có lấy một chút “tình sâu ý hiếm”, và mặc dầu cái lốt mới rềnh ràng của chúng, chúng vẫn có thể nằm sắp hàng với những câu sáo nhất xưa nay mà không chút... ngượng. Tránh tầm thường mà lại rơi vào tầm thường là thế.
Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiếm.
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt,Với Nguyễn Vỹ, chúng ta đã mất hẳn cái cười kiêu ngạo ấy và ngơ ngác thấy sắp cùng hàng với... chó.
Sở vương đài tạ không sơn khâu.
Hứng cam lạc bút giao ngũ nhạc,
Thi thành tiếu ngạo lăng thương châu.
Đăng bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 25/02/2008 22:14
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 21/09/2009 13:25
Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một trong những nhà thơ mới đầu tiên của Việt Nam. Các bút hiệu khác của ông: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền. Ông nổi tiếng là một thơ yêu chuộng cái mới và là một nhà báo nói thật [1].
Nguyễn Vỹ sinh năm 1912 [2] tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, năm 1945 lại đổi là Phổ Phong), huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Tuyên từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng vì chống Pháp nên từ chức, mẹ là bà Trần Thị Luyến. Ngoài ra ông có người bác là Nguyễn Thuyên từng bị quân Pháp đày Côn Đảo, anh họ là Nguyễn Nghiêm, thủ lĩnh phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở Quảng Ngãi năm 1930 sau bị giết hại tại tỉnh nhà.
Ông từng theo học tại trường Trung học Pháp - Việt ở Qui Nhơn 1924-1927, rồi gián đoạn vì tham gia các cuộc vận động chống thực dân, sau đó ông ra miền Bắc theo học ban tú tài tại Hà Nội.
Năm 1934, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, tên là Tập thơ đầu. Tập thơ này gồm hơn 30 bài thơ Việt và thơ Pháp. Tập thơ đầu in ra không được nhiều thiện cảm, bị cho là rườm rà, “nhiều chân” và là đối tượng chê bai chính của Lê Ta trên các báo.
Năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt Pháp lấy tên là Le Cygne, tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng tác. Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp nên tờ báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị qui kết tội phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia. Kết quả ông bị toà án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3000 quan tiền phạt.
Ông mãn tù năm 1939, lúc Pháp thất trận, quân Nhật vào chiếm đóng. Nguyễn Vỹ lại tranh đấu chống Nhật, ông dùng ngòi bút cho xuất bản hai quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật là: Kẻ thù là Nhật Bản; Cái hoạ Nhật Bản.
Lần này, Nguyễn Vỹ lại bị quân Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê (sau này trong tạp chí Phổ thông bộ mới, Nguyễn Vỹ có kể lại những ngày sống trong tù ngục với tựa bài Người tù 69).
Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo này bị đóng cửa.
Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Đà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Đại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt tờ báo trên cũng bị đình bản.
Năm 1952, một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương là tờ Dân ta, sống được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước.
Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam. Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông lúa, tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm...
Năm 1956, Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui. Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản nhật báo Dân ta (bộ mới) nhưng đến năm 1965 cũng lại bị đóng cửa và từ 1967 Nguyễn Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ thông mà thôi.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh Long An)- Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.
Tác phẩm:
- Tập thơ đầu - Premières poésies (thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934.
- Đứa con hoang (tiểu thuyết), NXB Minh Phương, Hà Nội, 1936.
- Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn), NXB Đông Tây, Hà Nội, 1937.
- Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1938.
- Cái hoạ Nhật Bản (luận đề chính trị), NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1938.
- Đứng trước thảm kịch Việt Pháp - Devant le drame Franco Vietnamien (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn), tác giả xuất bản, Đà Lạt, 1947.
- Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo), tác giả xuất bản, Đà Lạt, 1948.
- Thi sĩ Kì Phong (tiểu thuyết), 1938.
- Chiếc bóng (tiểu thuyết), NXB Cộng Lực, Hà Nội, 1941.
- Chiếc áo cưới mầu hồng (tiểu thuyết), NXB Dân Ta, Sài Gòn, 1957.
- Người yêu của hoàng thượng (tiểu thuyết), NXB Minh Phương, Hà Nội, 1958.
- Giây bí rợ (tiểu thuyết), NXB Dân Ta, Sài Gòn, 1957.
- Hai thiêng liêng I
- Hai thiêng liêng II (tiểu thuyết), NXB Dân Ta, Sài Gòn, 1957
- Hoang vu (thơ) NXB Phổ Thông, Sài Gòn, 1962
- Mồ hôi nước mắt (tiểu thuyết), NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1965
- Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1970
- Tuấn, chàng trai nước Việt I
- Tuấn, chàng trai nước Việt II (chứng tích thời đại), NXB Triêu Dương, Sài Gòn, 1970.
- Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học), NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1970.
- Buồn muốn khóc lên (thơ), 1970
- Mình ơi (văn hoá tổng quát), 1970
- Thơ lên ruột (thơ trào phúng), 1971
Bên cạnh những tập sách biên khảo có giá trị như Văn thi sĩ tiền chiến, Tuấn - chàng trai nước Việt… Nguyễn Vỹ còn viết nhiều bộ tiểu thuyết, nhưng được đánh giá là không thành công [3].
Riêng về thơ, ông nhận được nhiều lời khen chê. Trong Tập thơ đầu (1934), Nguyễn Vỹ có đăng vài bài theo lối 12 chân (alexandrins), một lối thơ mới trên thi đàn Việt Nam, nhưng không lạ gì đối với thi đàn Phương Tây.
Đến ngày nay cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mùChính vì lẽ đó, ông bị Thế Lữ cho rằng ông có ý định “toan loè và bịp mọi người” [4], còn Vũ Ngọc Phan thì viết: “Với thời gian, không một ai có thể bị cám dỗ mãi về những cái tầm thường, chỉ cầu kỳ có bề mặt” [5].
Mà còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng...
(Gửi một thi sĩ của nước tôi, Hà Nội báo, số 23, 1936)