Ảnh Ngô Đức Kế chụp tại Sở Cảnh sát Đà Nẵng ngày 4-3-1921 với số tù 417
Căn cước công dân Hà Nội do Sở cảnh sát Hà Nội cấp 11-1924 khi Ngô Đức Kế làm chủ bút báo Hữu thanh
☆☆☆☆☆ 23.50
Nước:
Việt Nam (
Cận đại)
18 bài thơ,
6 bài dịch
Thơ đọc nhiều nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Ngô Đức Kế 吳德繼 (1878 - 10/12/1929) tên thật là Ngô Bình Viên, hiệu Tập Xuyên 集川, là chí sĩ, và là nhà thơ, nhà báo Việt Nam ở đầu thế kỷ XX. Ông người làng Trảo Nha, thuộc tổng Đoài, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh (nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), xuất thân trong một gia đình quan lại nhiều đời. Cha ông là Tả tham tri bộ Lễ Ngô Huệ Liên (?-1912), về sau giữ chức Toản tu Quốc sử quán triều Nguyễn.
Năm 1901, ông dự thi đình, đỗ Á khoa năm Thành Thái thứ 13. Tuy nhiên, ông không ra làm quan mà ở nhà dạy học, đọc tân thư, liên hệ với Phan Bội Châu, và đứng ra đề xướng lối học mới và bài xích cái học từ chương và cử nghiệp. Đồng thời, ông cùng với Lê Văn Huân và Đặng Nguyên Cẩn lập ra Triều Dương thương điếm ở Vinh.
Năm 1908, ông bị Pháp bắt và bị đày ở Côn Đảo. Năm 1921, ông ra tù, năm sau ông làm chủ bút báo Hữu thanh của Hội Công thương tương tế ở Hà Nội, đồng thời sáng tác thơ vǎn. Trên báo Hữu thanh, ông đã viết một số bài đả kích thơ văn lãng mạn và quyết liệt bài xích nhóm Nam phong (đứng đầu là Phạm Quỳnh) vì đã bênh vực Truyện Kiều. Năm 1927, tờ báo này bị đóng cửa, Ngô Đức Kế mở Giác quần thư xã, để xuất bản một số sách tiến bộ, trong số đó có Phan Tây Hồ di thảo của Phan Chu Trinh.
Ông bị bệnh và qua đời ở Bạch Mai năm 1929, mộ táng ở làng Tương Mai, Hà Nội. Những người yêu nước đương thời tổ chức tang lễ, dựng bia đề “Việt Nam chí sĩ Ngô Đức Kế chi mộ”. Ngày nay mộ ông đã được cải táng đưa về quê ông ở Trảo Nha, đặt trên núi Nghèn. Nhân dân gọi ông là Ngô Nhân Tổ (người cụ tổ họ Ngô) hoặc gọi là Ngô Việt Hành (hành tinh đất Ngô - Việt).
Ngô Đức Kế 吳德繼 (1878 - 10/12/1929) tên thật là Ngô Bình Viên, hiệu Tập Xuyên 集川, là chí sĩ, và là nhà thơ, nhà báo Việt Nam ở đầu thế kỷ XX. Ông người làng Trảo Nha, thuộc tổng Đoài, huyện Thạch Hà, phủ Hà Thanh, tỉnh Hà Tĩnh (nay là thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), xuất thân trong một gia đình quan lại nhiều đời. Cha ông là Tả tham tri bộ Lễ Ngô Huệ Liên (?-1912), về sau giữ chức Toản tu Quốc sử quán triều Nguyễn.
Năm 1901, ông dự thi đình, đỗ Á khoa năm Thành Thái thứ 13. Tuy nhiên, ông không ra làm quan mà ở nhà dạy học, đọc tân thư, liên hệ với Phan Bội Châu, và đứng ra đề xướng lối học mới và bài xích cái học từ chương và cử nghiệp. Đồng thời, ông cùng với Lê Văn Huân và Đặng Nguyên Cẩn lập ra Triều Dương thương điếm ở Vinh.
Năm 1908, ông bị Pháp bắt và bị đày ở Côn…
Thơ dịch tác giả khác