Đăng bởi tôn tiền tử vào 23/04/2020 22:03
Huỳnh Thúc Kháng hay Hoàng Thúc Kháng (thuở nhỏ có tên là Huỳnh Hanh, hiệu là Mính Viên, 1876–1947) là một chí sĩ yêu nước nổi tiếng của Quảng Nam, từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao trọng trách là Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khi Người đi công tác dài ngày ở nước ngoài.
Nhắc đến ông, nhân dân nước ta thường gọi ông với cái tên trìu mến, thân thương và vô cùng gần gũi là: Cụ Huỳnh.
Huỳnh Thúc Kháng là một trong Thập ngũ phụng tề phi của đất Quảng Nam xưa, ông là thủ khoa của kỳ thi Hương năm 1900 (Canh Tý). Ông người làng Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Huỳnh Thúc Kháng đi học lúc 8 tuổi, đến năm 13 tuổi đã văn hay chữ tốt. Năm Canh Tý (1900), ông dự thi Hương và đậu Giải nguyên. Ông nổi tiếng ở kinh đô Huế, sánh cùng Trần Quý Cáp, Phạm Liệu. Năm Giáp Thìn (1904), ông đỗ Tiến sĩ. Ông cùng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp là những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Vì lý do đó, ông bị bắt trong năm Mậu Thân (1908), rồi bị đày ở Côn Đảo suốt 13 năm (1908-1921) mới được trả tự do. Năm 1926, ông đắc cử dân biểu rồi được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Trong ba năm hoạt động ở Viện, ông cương quyết tranh đấu trong nghị trường, rồi nhân việc chống lại Khâm sứ Pháp Jabouille, ông từ chức. Năm 1927, ông sáng lập ra nhà in và báo Tiếng dân, suốt thời gian này Ông làm chủ nhiệm kiêm chủ bút báo tại Huế cho đến khi tờ báo Tiếng dân bị đình bản (1943). Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông ra tham gia nội các Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, Huỳnh Thúc Kháng được cử làm quyền Chủ tịch nước. Thời gian này ông còn là chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt).
Cuối năm 1946, ông là đặc phái viên của chính phủ vào cơ quan Uỷ ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ tại Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Tháng 3 năm 1947, Huỳnh Thúc Kháng lâm bệnh nặng. Ngày Ngày 21 tháng 4 năm 1947 mất tại gia đình chị Võ Thị Tuyết, thôn Phú Bình, xã Hành Phong, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Làm theo tâm nguyện của cụ, nhân dân đã an táng cụ trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi – “Thiên Ấn niên hà” (Ấn trời đóng xuống sông).
Trong khi tiến hành lễ quốc tang cụ Huỳnh Thúc Kháng - Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Ban tổ chức lễ tang đã trang trọng uy nghiêm đọc bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi:
Gửi toàn thể đồng bào sau ngày cụ Bộ trưởng Huỳnh Thúc Kháng tạ thế.Và, trong bài điếu văn Thương tiếc cụ Huỳnh Thúc Kháng đọc đầy xúc động của đại diện Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Ngãi đã kết thúc bằng hai vế đối thật súc tích, đầy ý nghĩa:
Hỡi đồng bào yêu quý, Vị chiến sĩ lão tiền bối Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Hội trưởng Hội Liên hiệp Quốc dân vừa tạ thế. Trước sự đau xót đó, Chính phủ ta đã ra lệnh làm Quốc tang. Nhân dịp này, tôi có vài lời báo cáo cùng đồng bào. Cụ Huỳnh là một người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà trước đây Cụ bị bọn thực dân làm tội, đầy ra Côn Đảo. Mười mấy năm trường, gian nan cực khổ. Nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của cụ Huỳnh chẳng những không sờn lại thêm kiên quyết.
Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập.
Đến nay nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, Chính phủ ta mời Cụ ra. Tuy đã hơn 71 tuổi, nhưng Cụ vẫn hăng hái nhận lời. Cụ nói: “Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng phải ra sức phụng sự Tổ quốc”. Nay chẳng may Cụ Huỳnh sớm tạ thế, trước khi được thấy kháng chiến thành công. Cụ Huỳnh tuy tạ thế nhưng cái chí vì nước, vì nòi của cụ vẫn luôn sống mạnh mẽ trong lòng hai mươi triệu đồng bào chúng ta…
Làm nghệ sĩ không vinh, tù Côn Lôn không nhục, khí tiết cội Tùng trơ mộ gốc;Nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng tại xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước vẫn còn lưu giữ nhiều kỷ vật có giá trị, được một người cháu nuôi trong dòng tộc bảo quản
Lãnh Bộ trưởng trọn tài, quyền Chủ tịch trọn đức, tinh anh sao Vĩ chiếu ngàn thu.
Đăng bởi tôn tiền tử vào 23/04/2020 22:09
1. Người có trí nhớ tuyệt vời
Ngay từ nhỏ, cậu bé Huỳnh Hanh (về sau, trong khoa thi Hương năm Canh Tý 1900 đổi tên thành Huỳnh Thúc Kháng) đã nổi tiếng là có trí nhớ đặc biệt. Huỳnh Hanh bắt đầu đi học từ năm 8 tuổi. “Nhà nghèo, không sách, nhưng nhờ có tiếng thông minh, đọc sách nào thì nhớ quyển ấy” (tự truyện của cụ Huỳnh, trang 11). Năm lên 11 tuổi, theo học với cậu là Tế tử Nguyễn Đình Tựu, Huỳnh Hanh học thuộc rất nhanh các sách cậu dạy “thập ngũ Quốc phong cùng Nhã, Tụng đều thuộc làu” (tự truyện trang 13). Càng lớn trí nhớ của Huỳnh Thúc Kháng càng tuyệt vời. Trong hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm cụ Đào Duy Anh nhận xét rằng: “Trí nhớ của cụ (tức Huỳnh Thúc Kháng) thì đặc biệt, bài văn đọc qua một lần là nhớ, hỏi đến sách xưa thì cụ biết ngay rằng câu ấy, đoạn ấy là ở chỗ nào mà giở ngay ra cho người ta xem” (Hồi ký trang 22). Nhận xét đó quả là không ngoa tí nào. Bởi vì mọi người đều biết rằng khi bị bắt đi đày ở Côn Lôn, cụ Huỳnh đã thủ sẵn một cuốn Lecture-langage, một cuốn từ điển Pháp-Việt của Trương Vĩnh Ký và một quyển ngữ pháp grammaire. Lúc ngồi tù ở Côn Đảo cụ còn mua thêm cả cuốn l’Histoire nationale Francaise để đem ra đọc vào những giờ nghỉ trưa, khiến cho số tù hình sự phải phàn nàn: “Tụi quan to ở nhà cha mẹ cho đi học không lo học, nay ra tù học cái gì phá giấc ngủ người ta”. Thế mà chỉ sau một thời gian, Huỳnh Thúc Kháng đã học thuộc lòng cả cuốn từ điển Pháp-Việt, và được ra làm việc ở nhà giấy nhờ biết… Pháp văn! Điều này càng khiến cho số tù thường phạm lấy làm lạ, lại bảo nhau: “Té ra học trong tù mà cũng làm việc nhà giấy được kìa!” Từ đó, họ không mắng chửi nữa, lại có người sắm giấy bút để học.
Sau khi đọc xong cuốn Thi tù tùng thoại dày 272 trang (do nhà Nam Cường xuất bản năm 1951), ghi lại những sự kiện diễn ra ở Côn Lôn trong suốt 13 năm ngồi tù của Huỳnh Thúc Kháng, chúng ta càng kinh ngạc trước trí nhớ phi thường của cụ. Lời cuối sách cụ ghi rõ: “Bản Thi tù tùng thoại trên chính tự tôi tai nghe mắt thấy, chép trong trí nhớ được hoàn toàn - có lầm chăng một đôi chữ”.
Nhân đây, chúng tôi xin ghi lại một giai thoại về trí nhớ tuyệt vời của Huỳnh Thúc Kháng khi cụ còn là cậu bé Huỳnh Hanh. Nhân dân địa phương kể rằng vào một hôm cuối đông, cũng như nhiều nhà khác, gia đình Huỳnh Hanh bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa, lau rửa đồ thờ phụng chuẩn bị đón xuân. Để cho trong nhà thêm vẻ khang trang, cụ Huỳnh Tấn Hữu đưa tiền bảo Huỳnh Hanh xuống chợ huyện mua một cuốn lịch về treo. Hanh vâng lời cha ra đi từ sáng sớm, mãi tới trưa mới về nhưng trong tay không có tờ lịch nào cả mà chỉ toàn tranh ảnh Tứ Quý. Thấy con không làm theo lời mình bảo, cụ Huỳnh Tấn Hữu giận lắm. Đoán biết ý cha, Hanh thưa trước “Thưa cha, con đã sẵn một tấm lịch cho cha”. Nói xong Hanh vào bàn lấy giấy cắt xén ngay ngắn rồi chăm chú viết lại y như cuốn lịch mà cậu đã xem kỹ trong một tiệm bán hàng tết ở chợ.
2. Tiếng cười của nhà chí sĩ
- Tiếng cười xem thường uy vũ:
Huỳnh Thúc Kháng là một người “uy vũ bất năng khuất”. Trong tự truyện, ông kể rằng: khi ông đang vận động thành lập thương hội ở Hội An thì phong trào xin giảm sưu thuế đã nổ ra. Biết mình không tránh khỏi liên luỵ nên ông đã tránh về quê nhà tại Thạnh Bình.
Ngay sau đó, quan binh Pháp-Nam đã kéo đến bắt ông. Nhưng, “để bắt một chàng thư sinh tay trơn chân trần, phải dùng đến một đề đốc tỉnh, hai quan đồn binh, lại đèo hai chục lính tập, chia đường lục đục kéo đến, xem tôi như một lãnh tụ dân đảng nào, một địch tướng, phòng có việc gì xảy ra bất trắc chăng”. Thấy vậy Huỳnh Thúc Kháng vẫn “có thái độ thản nhiên, cười nói như thường” (Tự truyện trang 29).
- Tiếng cười đồng chí:
Lúc xảy ra vụ chống thuế Trung Kỳ, Phan Châu Trinh đang ở Hà Nội liền bị bắt giải về Huế kết tội mưu loạn đày ra Côn Đảo. Ngày 28 tháng 8 năm ấy (1908) Huỳnh Thúc Kháng cùng 26 người nữa cũng bị đày ra Côn Đảo. Cũng như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng bị kết tội mưu loạn đày ra Côn Lôn ngộ xá bất nguyên. Tại đây, Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng đã gặp nhau. Trong giây phút gặp gỡ đầu tiên giữa đảo, hai ông chỉ nhìn nhau… cười! Chẳng cần hỏi “vì sao lại phải đến Côn Lôn”. Huỳnh Thúc Kháng đã ứng tác hai câu thơ:
Tóc tơ bạc phơ răng bác rụngQuả là tiếng cười lạc quan của những người đã cảm thông nhau một cách sâu sắc.
Gặp nhau không nói, ngó nhau cười!
Tuyển sanh Tứ Chánh rước ra bềKhi đến ngang ngõ nhà Huỳnh Thúc Kháng, thấy bài thơ vẽ lên cái “khí thế” đám rước mình như vậy, cậu tuyển sanh xấu hổ quá, bèn cho người đến lén bóc ngay bài thơ.
Đánh trống từ Nha đánh trở về
Ba ngọn cờ xài bay xấp xí
Vài con ngựa ốm chạy xàng xê
Thầy cha dạy sinh làng có bụng
Khen ai khéo tập một đoàn mê
Tích Phước Tài Đa thành Phú HữuMới nghe qua, nội dung vế đối thật hay, nhất là Huỳnh Thúc Kháng đã ghép tên làng của 4 tổng thuộc huyện Tiên Phước để nói lên những đức tính quý báu của người dân trên quê hương này: Chăm lo việc phúc, nhiều tài, giàu có, rộng lượng nên hưởng đức và được sống yên ổn.
Đại Đồng Thọ Đức đắc Bình An