Trang trong tổng số 27 trang (264 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Độ Tầm Dương giang vọng Tỳ Bà đình (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình

Thuyền quyên nhỏ lệ phím đàn tranh,
Nhờ gửi thuyền bên, chàng áo xanh.
Lưu lạc bên trời chung cảm khái,
Bâng khuâng dưới nguyệt với ca hành.
Cửu Giang mây nước đầy bao khách,
Muôn thuở phong lưu một mái đình.
Đầu bến cỏ thơm man mác tứ,
Thuyền ai thánh thót khúc tâm tình.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Đề Đằng Vương các (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình

Hiên cao chót vót ngắm sông trong,
Bắc Đẩu long lanh “tự” mấy dòng.
Kim cổ truyền đây lầu đế tử,
Non sông thu lại bút thần đồng.
Thuyền xe muôn dặm xuyên qua bến,
Hoa cỏ quanh năm rợp một vùng.
Thuyền sứ há nhờ cơn gió thuận,
Tình cờ nối dấu ngọc loan rung.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Du Mai Lĩnh (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình

Tương truyền Đại Dữu có rừng mai,
Cờ sứ đường xa hãy ghé chơi.
Gầy guộc chồi tiên lan khắp núi,
Lạnh lùng bậc đá vắt ngang trời.
Vượn gào, chiều xuống đầy khe lạnh,
Nhạn liệng mờ trông tít biển khơi.
Phong độ Khúc Giang cao vạn thuở,
Bia minh rêu phủ vạch xem chơi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Đề Phi Lai tự (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình

Hồi chuông thưa thớt rơi dòng lạnh,
Ánh sáng từ bi nguyện chẳng tan.
Đêm mọc “Chùa Bay” do tiếng sấm,
Núi trào thác đổ ngỡ sông Ngân.
Đạt Ma truyền xuống dòng chư Phật,
Âu Việt nêu cao dấu diệu thần.
Gần đoá mây hồng leo tới được,
Chén quỳnh vạn tuế rắp dâng lên.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Quảng thành công quán cung trị tiên tỉ huý thần, hựu phụng tiên khảo hạ tế lễ, tảo khởi cảm tác (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình

Chợt dừng xe ở đất phồn hoa,
Thức dậy tình quê đứa trẻ xa.
Ba chục năm dài mơ bóng mẹ,
Chín nghìn dặm lẻ giỗ đầu cha.
Mảy may chưa báo ơn người trước,
Xe, mũ, càng thêm hổ phận ta.
Dán mắt trời Nam, mây sớm lượn,
Tiệc hoa khôn cấm nét mày sa.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Hoa Sơn binh mã (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình

Chon von vách đá, sóng trong xanh,
Người ngựa son pha, thấp thoáng hình.
Rêu lấn giáp vàng mưa thấm đượm,
Hoa vờn yên ngọc gió rung rinh.
Thợ trời dựng núi tài khôn tả,
Đường sứ gian lao dạ cũng đành.
Dấu trận vu vơ bàn huyễn hoặc,
Non chiều thuyền ngả bóng chênh chênh.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Tự (Phan Huy Ích): Bản dịch của Đào Phương Bình, Đỗ Ngọc Toại, Hoàng Tạo, Nguyễn Ngọc Nhuận

Thơ là để nói chí hướng. Bậc sĩ quân tử lúc nhàn rỗi miêu tả tâm tình, ghi lại hành trạng, thường thường biểu hiện ra thiên chương, truyền lại cho người sau, dùng làm niên phả, để lại dài lâu. Đó thực là kho báu trong nhà, đâu chỉ để phô bày ý tứ văn vẻ, phẩm bình phong vật mà thôi.

Tôi thuở nhỏ theo đòi cử nghiệp, vốn vụng về với việc làm thơ. Kịp đến tuổi đội mũ mới bắt đầu xem rộng ra các tác phẩm xưa, rồi võ vẽ thôi xao, nhưng viết ra thì khô khan, thường hổ thẹn vì việc học làm thơ khó khăn. Lại vì sớm tham dự việc triều chính, lạm dự công việc cơ yếu, không được rỗi rãi để gọt câu luyện vần. Đến khi trị nhậm trấn Thanh Hoa lần thứ hai, khi trèo núi ngắm sông, ý tưởng siêu thoát, dần dần xúc cảm cao hứng ngâm nga. Kế đó trải bao biến đổi cuộc đời, vận nhà gieo neo, tình ưu uất cảm khái, nên mượn chuyện ngậm vịnh để tiêu khiển, thế rồi chương cú cứ dần dần nhiều lên.

Đến năm Nhâm Tuất (1802), nhà riêng bị cháy sạch, đến một chữ cũng không sót lại, sách vở tản mác khắp nơi, tôi cũng chưa có khi nào rỗi rãi để sao chép lại.

Hơn mười năm lại đây, vì phiêu dạt về miền tây nam, mở trường dạy học để sinh sống hàng ngày, hồi tưởng chuyện thơ văn trước đây mơ mòng tựa mộng. Tôi cho rằng việc sưu tầm ghi chép lại, là việc của con cháu sau này.

May mắn thay tuổi già chưa đến nỗi lẩm cẩm, năm Giáp Tuất (1814), ở Thiên Lộc tôi nghỉ dạy học đã lâu, trong cảnh nhàn thú, bèn uỷ thác cho các con đi khắp nơi tìm thơ văn ngâm vịnh khi xưa, hoặc còn trong trí nhớ, hoặc tìm được trong những bản sao của bà con bạn bè, rồi đưa dần lên tôi xem. Tôi bèn để ý san thuật, tuỳ theo năm tháng sắp xếp thành từng loại, những bài thơ tản mác nhớ lại mà chép ra đặt tên là “Dật thi lược toản”; còn những phần tìm được nguyên bản thì sao chép lại và giữ nguyên tên cũ, mà gọi chung là “Dụ Am ngâm lục”, chia ra thành 6 sách, xấp xỉ 600 bài thơ, đại khái số thơ này còn được non nửa. Tôi đưa đứa cháu ngoại tên là Bảo chép lại. Mùa xuân năm nay (1815), cuốn sách chép xong, các con tôi đều tới xem, rồi mang đến xin tôi viết lời tựa.

Nghĩ rằng: Thơ văn tôi viết ra nhiều, trong đó những bài đáng lưu truyền thì còn ở trên cửa miệng mọi người, những bài không đáng lưu truyền cũng may mà mất mát, nay sưu tập được để giúp cho việc kê cứu, thì cũng là điều may mắn cho con cháu rồi. Thảng hoặc năm tháng còn được kéo dài, khi cao hứng ngâm nga, nếu thêm được tập thơ nhỏ nào khác nữa thì cũng là điều đáng mừng ngoài ý muốn của mình.

Các con hãy thu thập chép lại toàn bộ, cất giữ trong tráp trong tủ, đợi khi tìm được đầy đủ các mục của văn tập sẽ giữ làm của báu trong gia đình. Còn như khoe khoang vần luật, truyền khắp mọi người thì chẳng phải là mục đích làm thơ của ta. Vậy làm bài tựa này.

Ngày mồng một tháng ba năm Ất Hợi (1815), thời hoàng triều Gia Long thứ 14. Dụ Am Khiêm Thụ Phủ đề tại mái tây chùa Hồ Thiên.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Bố Chính đạo trung (Ngô Thì Nhậm): Bản dịch của Đào Phương Bình

Quanh co một dải muối vây thành,
Đường hẻm về nam ấy Bố Chinh.
Cổ quái lòng dân coi đáng sợ,
Líu lo tiếng nói đoán khôn rành.
Xóm làng sinh sống duy chài lưới;
Nhà cửa quê mùa thay nứa tranh.
Gần gũi kinh kỳ, Tam Phụ ấy,
Nâng dần chất phác đến văn minh.

Ảnh đại diện

Văn giá cô thanh (Ngô Thì Nhậm): Bản dịch của Đào Phương Bình

Rộn “bất như quy” tiếng giá cô,
Thẫn thờ bước bước thế này ru?
Trăng kinh thành rọi sông hiu quạnh,
Mây cố hương theo núi tít mù.
Thân thế phiêu lưu đường lá nhẹ,
Tâm tư vương vấn hệt tơ vò.
Muốn chia mi nửa niềm vui thú,
Eo óc canh gà cứ cúc cu.

Ảnh đại diện

Ngụ Dinh Cầu muộn thuật (Ngô Thì Nhậm): Bản dịch của Đào Phương Bình

Tuyết phủ Lam quan ngựa mỏi chân,
Dùng dằng từng để hận tiền nhân.
Tha hương cảnh huống nhìn dương liễu,
Cố quốc tâm tư đoái tử phần.
Khơi lộng tính ra băm sáu cửa,
Núi non ngước thấy vạn hơn lần.
Chiêm bao huyền hạc mê rồi tỉnh,
Thấm thoắt trăm năm với cõi trần.

Trang trong tổng số 27 trang (264 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: