Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:
CẢM XÚC NHÂN NGÀY GIỖ MẸ 17 THÁNG 7
Đáng thương cho con từ năm lên ba đã mồ côi mẹ
Trong lòng kính nhớ nhưng sáng nay con còn ở chốn quê người
Đường xa đau lòng không được rót ba chén rượu cúng mẹ
Bên cửa sổ căn nhà khóc thầm tàn một nén nhang
Mây xòa xuống sát đầu ngựa, nhà ta ở phương nào?
Lệ rơi ướt vạt áo kẻ đường xa, tình cảnh buồn thương bội phần
Ngâm hết bài thơ “Lục nga” tâm hồn như rơi vào giấc mộng
Phải chăng trung với vua cũng là cách làm cho cha mẹ được vẻ vang?
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ của DNH:
Mẹ mất lên ba, thật đáng thương.
Sáng nay kính nhớ, vẫn trên đường.
Xa nhà vái vọng không ly rượu,
Bên cửa khóc tàn một nén hương.
Đầu ngựa mây nhòa, quê khuất nẻo,
Vạt tà lệ đẫm, cảnh thê lương.
"Lục nga" ngâm hết, hồn trong mộng,
Chữ hiếu cùng trung vạn dặm trường
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Thơ Đinh Nho Hoàn:
QUÁ HÀNH CHÂU THÀNH
Tương thủy phong vi luyện dục bình
Khấu huyền y trạo khệ Hành thành
Thê Chân thảo trát tư mi trát
Câu Lậu kham thanh thuộc mộng thanh
Vân bích khai hàn như hữu ước
Cổ sơn bi lượng tịch vô thanh
Phong cao hồi nhạn thư hà hệ
Tiền hữu Gia Ngư khả đạt tình
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bảndichj nghĩa của Ngô Đức Thọ:
QUA THÀNH HÀNH CHÂU
Làn gió thổi nhẹ, sông Tương tựa như tấm lụa phẳng mịn
Gõ mạn tựa chèo cho thuyền vào thành Hành Châu
Cỏ núi Thê Chân non mượt như hàng lông mi
Am núi Câu Lậu thanh vắng như trong mộng
Bức tường mây mở ra một khoảnh như hẹn trước
Núi Cổ Sơn sáng buồn không một tiếng động
Trên núi cao có đàn nhạn bay về nhưng làm sao buộc được thư
Phải đến huyện Gia Ngư ở phía trước may ra mới có thể gửi được
bức thư về nhà kể tình cảm của mình
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ của DNH:
Gió nhẹ sông Tương nước phẳng lì
Hành Châu gõ mạn tựa chèo đi
Bóng am Câu Lậu mờ như mộng
Cỏ núi Thê Chân mượt tựa mi
Vân điệp lững lờ trời rộng mở
Cổ Sơn thanh vắng cảnh buồn thê
Naò thư buộc được chim trên núi
Phải đến Gia Ngư mới gửi về
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Thơ Đinh Nho Hoàn:
ĐỀ NAM NHẠC HÀNH SƠN
(Dực và Chẩn là tên sao,
chỉ vùng trời nước ta ở về phương nam)
Tam thập dư tuyền thất thập phong
Phong liên Dực Chẩn ý trường không
Yên hoành phi bộc khâm Hồi Nhạn
Vân quyện hương đằng ngột Chúc Dung
Ngu hậu tích lưu thiên thụ nguyệt
Lân tàn tình đối bán khê phong
Thúy gian khước ái nam chi điểu
Hiến hoản kiều nghênh cố quốc ông
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:
ĐỀ Ở NÚI HÀNH SƠN DÃY NAM NHẠC
Hơn ba mươi suối, bảy mươi ngọn núi cao
Núi liền núi chạy dài về khoảnh trời phương nam
Làn khói mỏng bay ngang dòng thác dựng trên núi Hồi Nhạn
Mây cuộn như dây thừng trên đỉnh Chúc Dung
Dấu tích của vua Thuấn còn lưu lại dưới ánh trăng soi trên ngàn cây
Một mảnh trời sáng rớt lười biếng trông xuống nửa dòng khe lộng gió
Giữa ngàn xanh chợt yêu nhớ chim Việt đậu cành nam
Dịu dàng luyến tiếc chào đón các ông già ở nước cũ
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ 1 của DNH:
Non hơn bảy chục suối ba mươi
Dực Chẩn trời xa núi chạy dài
Hồi Nhạn khói bay qua thác đổ
Chúc Dung mây cuộn tựa thừng bay
Mảnh trời lộng gió khe dòng chảy
Tích Thuấn lưu danh ánh sáng soi
Chim Việt cành nam sao bỗng nhớ
Lão ông cố quốc, đón chào người
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ 2 của DNH:
Núi bảy chục, suối ba mươi
Non cao trùng điệp chạy dài về nam
Khói qua Hồi Nhạn bay ngang
Chúc Dung sừng sững mây đan tựa thừng
Tích xưa vua Thuấn vang lừng
Ánh trời lười rớt xuống dòng khe sâu
Cành nam chim Việt nhớ sao
Người già nước cũ đón chào chờ mong
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Thơ Đinh Nho Hoàn:
ĐỀ HÒA QUANG TỰ
Bất luận kim lâu bảo điện kỳ
Thanh hư tiện thị quảng từ bi
Đỗ quyên hoa lạn vô sinh hữu
Giang thượng hương phong cụ khí xuy
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook