Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:
QUA HUYỆN QUÝ
(- Gần huyện thành có giếng Lục Tục, cạnh giếng có cây quất quý. Trên núi Long Sơn có loại chè ngon, có suối Tử Tuyền (suối Tía) với dòng nước phun.
- Tác giả nhắc đến sự tích cây cam đường (cây bàng): Đời Chu Vũ vương, Thiệu Bá là người biết lo cho dân, mỗi lần tuần thú phương nam thường ngồi nghỉ dưới gốc cam đường (bài “Cam đường” trong “Kinh Thi”).
- Núi Thạch Chung có đá lạ, tương truyền khi gõ vào đá thì mưa to gió lớn sẽ đến ngay. Thời cổ, khi chưa có kim sắt, người ta châm cứu bằng kim đá (thạch châm). Trong bài, tác giả nhắc đến sự tích đá lạ này với nghĩa bóng là liệu có cải thiện được chính sự để lo cho dân không?)
Mấy tiếng sáo vẳng cất trên Hương giang
Người phu thuyền cười chỉ tay về phía thành Uất Bình
Chim kêu bên giếng Lục Tục, cây quất vừa nhú quả
Núi Long Sơn khói mờ, ấm trà vừa mới pha
Suối Tử Tuyền trải lụa, ngờ là có linh ứng
Dưới bóng cây cam đường chỉ lo không có tình cảm với dân
Nhà sư nói, đá núi Thạch Chung có thể gọi mưa to gió lớn
Mùa viêm nhiệt thử lấy đá ấy làm kim châm chữa bệnh xem sao?
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ của Cao Thế Lữ:
Vẳng nghe tiếng sáo Hương Giang
Phu thuyền cười chỉ đường sang Uất Bình
Chim kêu quất nhú quả xinh
Đình Long mờ khói, hương quang ấm trà
Suối Tuyền linh áo lụa là
Cam Đường rủ bóng, lòng ta lo đời
Gió mưa, núi Thạch gọi trời
Đá kia mài thử cứu người xem sao.
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ của DNH:
Véo von tiếng sáo giữa sông Hương
Cười nói phu thuyền đứng chỉ đường
Quất nở chim ca bên Lục Tục
Trà pha khói tỏa đỉnh Long Sơn
Trên dòng suối Tía phun trào nước
Dưới bóng cam đường nghĩ tới dân
Đá núi Thạch Chung hô sấm chớp
Liệu mài nhọn để được kim châm?
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Thơ Đinh Nho Hoàn:
QUÁ TẦM CHÂU PHỦ
Đại loan đông bác thủy tình thâm
Hoãn trạo tiêm ca khước đáo tầm
Động hữu bích hư nghi cứu nhật
Sản đa trữ bố quý thiên kim
Nam hồ đình mộ du nhân khứ
Bạch đảo tuyền hương vũ khách tầm
Lang thạch du du sơn tại thử
Vị thùy lương trạng túc cầm tâm
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:
QUA PHỦ TẦM CHÂU
Ở vũng sông sâu dòng chảy chuyển về đông
Vừa ca hát vừa khua chèo tiến vào sông Tầm Dương
Trong động có khoảng lộ thiên là nơi tế thần mặt trời
Huyện này sản xuất nhiều vải lụa quý ngàn vàng
Chiều muộn du khách rời đình phía nam hồ trở về
Bầy chim tìm về trên đảo cát trắng có dòng suối thơm
Tảng đá lớn nhàn lặng kia chính đó là ngọn núi
Không rõ vì ai, nó như cái phím ngựa giữ lại tâm tư của tiếng đàn
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
bản dịch thơ của Cao Thế Lữ:
Vũng sâu dòng chảy về đông
Tay chèo miệng hát bềnh bồng Tầm Dương
Lụa tơ quý tựa ngàn vàng
Khoảng không trong động có bàn thờ linh
Chiều buông du khách rời đình
Bầy chim về đảo chao mình suối thơm
Lặng thầm đá dựng núi non
Trông như phím ngựa ngưng tròn tiếng tơ
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ của DNH:
Dòng chảy sông sâu chuyển hướng đông
Khua chèo ca hát đến Tầm Dương
Khoảng không động núi bày đồ tế
Vải lụa nơi đây sánh bạc vàng
Khách chuyển đình nam chiều xế bóng
Chim về đảo cát suối thơm dòng
Đá kia như ngọn non im ắng
Trông tựa phím đàn tỏ nỗi lòng
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Thơ Đinh Nho Hoàn:
QUÁ QUẾ BÌNH HUYỆN NHÂN CHUNG DOÃN XUẤT PHIẾN CẦU THI, TOẠI ĐỀ
(- Trong bài tác giả có nhắc đến cụm từ “quân tu ký” (ông nên nhớ) là trích từ câu thơ “Nguyên Phong cựu sự quân tu ký” (Việc cũ năm Nguyên Phong ông nên nhớ) của Trần Nhân Tông.
- Trác Lỗ, tức Trác Mậu và Lỗ Cung, người thời Đông Hán.
- Chu Trình, tức Chu Hi, Chu Đôn Di và hai anh em Trình Hạo, Trình Di thời nhà Tống)
Phiếm phiếm ngôi tường đạt Quế Bình
Chinh khâm đoan thính phượng hoàng minh
Bích đàm nguyệt tiểu ngân thu hộ
Độc tú tùng cao lục hạ đình
Phu đức cập đồn tiên Trác Lỗ
Đạo tâm như kính hậu Chu Trình
Tử tuyền thụy ứng quân tu ký
Tào bộ sa đê nhất phẩm vinh
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch nghĩa của Ngô Đức Thọ:
QUA HUYỆN QUẾ BÌNH NHÂN HUYỆN DOÃN
HỌ CHUNG ĐƯA CHIẾC QUẠT XIN THƠ BÈN ĐỀ NHƯ SAU
Nhè nhẹ dong buồm đi tới Quế Bình
Sửa vạt áo nghiêm trang chờ nghe phượng hoàng gáy sáng
Hồ xanh trăng nhỏ những ngôi nhà sáng bạc màu thu
Tùng cao trơ trọi rợp sân xanh bóng như mùa hè
Tài năng cẩn cán hơn cả Trác Lỗ
Đạo đức gương sáng chỉ sau Chu Trình
Suối Tía (Tử tuyền) điềm lành ông nên nhớ
Sẽ sớm đi trên bờ đê với hàm nhất phẩm được vinh thăng
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Bản dịch thơ của Cao Thế Lữ:
Thuyền nhẹ lâng lâng đến Quế Bình
Chỉnh y, chờ phượng gáy bình minh
Hồ im trăng mảnh nhà thu bạc
Tùng vút sân đầy bóng hạ xanh
tài cán copnf hơn hàng Tác, Lỗ
Đức minh chỉ kém bậc Chu, Trìng
Điềm lành suối tía ông nên nhớ
Sớm dạo đê cao nhất phẩm vinh.
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook