宋溪生祠詩

東矚玉山西玉壺,
飛甍接宇劃中區。
萬人歌頌今生佛,
四代繁華此故都。
令譽儘堪馳海岳,
隱憂偏自遠江湖。
他年若鑄黄金像,
何減麒麟閣上圖。

 

Tống Khê sinh từ thi

Đông chúc Ngọc Sơn tây Ngọc Hồ,
Phi manh tiếp vũ hoạch trung khu.
Vạn nhân ca tụng kim sinh Phật,
Tứ đại phồn hoa thử cố đô.
Lệnh dự tận kham trì hải nhạc,
Ẩn ưu thiên tự viễn giang hồ.
Tha niên nhược chú hoàng kim tượng,
Hà giảm kỳ lân các thượng đồ.

 

Dịch nghĩa

Nhìn phía đông là đền Ngọc Sơn, phía tây là chùa Ngọc Hồ,
Mái lầu san sát như vạch vào không trung.
Muôn người ca tụng như Phật sống ngày nay,
Bốn đời được phồn thịnh ở đất cố đô này.
Tiếng tốt ban khen truyền đi khắp biển núi,
Tấm lòng ưu ái rộng lớn tới tận miền sông hồ xa xôi.
Nếu năm nọ đúc tượng vàng,
Thì làm sao giảm được tranh vẽ trên gác kỳ lân.


Lạc khoản: “Thị giảng học sĩ Vũ Thuý bái” 侍講學士武翠拜 (Vũ Thuý chức Thị giảng học sĩ bái đề).

Tống Khê tức Nguyễn Hữu Độ 阮有度 (1824-1888) tự Hy Bùi 希裴, hiệu Tống Khê 宋溪, tước Vĩnh Lại quận công, người Gia Miêu, huyện Tống Sơn, nay là huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 20 (1867), làm Kinh lược Bắc Kỳ. Ông là một trung thần của nhà Nguyễn và tích cực cộng sự với Pháp. Ông nổi tiếng trong lịch sử với sự kiện phá huỷ chùa Báo Thiên để xây Nhà thờ lớn Hà Nội, và việc dựng sinh từ thờ chính mình khi còn sống. Sinh từ nằm ở phố Sinh Từ cũ, nay là phố Nguyễn Khuyến, quận Đống Đa, Hà Nội. Nhiều người thời đó đã làm thơ vịnh sinh từ này, gồm cả ca ngợi lẫn chế giễu.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]