Thơ » Trung Quốc » Nguyên » Trương Bá Thuần
Đăng bởi Vanachi vào 04/11/2018 13:18
安南,古越地,雖在九州之外,或以禹舊服也。自昔置刺史,若守若牧,有地有治,教化所及。故其俗知文物,當不昧於尊君親上之義。而自入皇元職方氏以來,其於事君親上之義若未究焉,使者所以相屬於道。夫以堂堂國家,於裏誌之地,顧有所遺哉!大抵柔遠,惟德與威,德者聖人所先;威者聖人所不得已。舜敷文德於兩階,文王修教而因壘,皆時也。今天子六龍正禦,大霈解澤,不以安南遠服而外之,謀所以布宣德音者。於是以禮部侍郎李君仲賓實使,而以兵部郎中蕭君則平為輔行。於乎才選也。
人謂此行為易,餘獨以為難!奚言其難?向者諭旨於是邦,孰不曉以君臣大義與禍福利害之機?彼挾其懼心以聽,則言易入;不然,歸而報聞,吾盡吾職,國家固自有以處。今二君涉跋數千里,播尺一書,開其自新而已。倘於於而去,於於而來,是夫人而能為傳,安事我輩?況人情積懼之餘,一旦自拔於無過,則不勝喜。然喜者玩之萌也!吾就其所喜,而能使之;舍其遲回不決之舊,而新是圖,斯不負皇華禮樂之遺。仲賓嘗班尚書郎,則平當二刑獄;使者平昔所學、所行何事?今行矣!有匪躬蹇蹇之操,無入直刺刺之態,其人能辦人之所難,決然無疑矣。餘客中,不堪聽《陽關》,不能效兒曹,作加餐相憶語。姑敘以識別。
至元三十一年七月朔日,書上都玉堂之署。
An Nam, cổ Việt địa, tuy tại cửu châu chi ngoại, hoặc dĩ Vũ cựu phục dã. Tự tích trí thứ sử, nhược thú nhược mục, hữu địa hữu trị, giáo hoá sở cập. Cố kỳ tục tri văn vật, đương bất muội ư tôn quân thân thượng chi nghĩa. Nhi tự nhập hoàng Nguyên chức phương thị dĩ lai, kỳ ư sự quân thân thượng chi nghĩa nhược vị cứu yên, sứ giả sở dĩ tương thuộc ư đạo. Phu dĩ đường đường quốc gia, ư lý chí chi địa, cố hữu sở di tai! Đại để nhu viễn, duy đức dữ uy, đức giả thánh nhân sở tiên; uy giả thánh nhân sở bất đắc dĩ. Thuấn phu văn đức ư lưỡng giai, Văn Vương tu giáo nhi nhân luỹ, giai thì dã. Kim thiên tử lục long chính ngự, đại bái giải trạch, bất dĩ An Nam viễn phục nhi ngoại chi, mưu sở dĩ bố tuyên đức âm giả. Ư thị dĩ Lễ bộ thị lang Lý quân Trọng Tân thực sứ, nhi dĩ Binh bộ lang trung Tiêu quân Tắc Bình vi phụ hành. Ư hồ tài tuyển dã.
Nhân vị thử hành vi dị, dư độc dĩ vi nan! Hề ngôn kỳ nan? Hướng giả dụ chỉ ư thị bang, thục bất hiểu dĩ quân thần đại nghĩa dữ hoạ phúc lợi hại chi cơ? Bỉ hiệp kỳ cụ tâm dĩ thính, tắc ngôn dị nhập; bất nhiên, quy nhi báo văn, ngô tận ngô chức, quốc gia cố tự hữu dĩ xứ. Kim nhị quân thiệp bạt sổ thiên lý, bá xích nhất thư, khai kỳ tự tân nhi dĩ. Thảng ư ư nhi khứ, ư ư nhi lai, thị phu nhân nhi năng vi truyện, an sự ngã bối? Huống nhân tình tích cụ chi dư, nhất đán tự bạt ư vô quá, tắc bất thắng hỷ. Nhiên hỷ giả ngoạn chi manh dã! Ngô tựu kỳ sở hỷ, nhi năng sử chi; xá kỳ trì hồi bất quyết chi cựu, nhi tân thị đồ, tư bất phụ hoàng hoa lễ nhạc chi di. Trọng Tân thường ban thượng thư lang, Tắc Bình đương nhị hình ngục; sứ giả bình tích sở học, sở hành hà sự? Kim hành hỹ! Hữu phỉ cung kiển kiển chi thao, vô nhập trực thích thích chi thái, kỳ nhân năng biện nhân chi sở nan, quyết nhiên vô nghi hỹ. Dư khách trung, bất kham thính “Dương Quan”, bất năng hiệu nhi tào, tác gia xan tương ức ngữ. Cô tự dĩ thức biệt.
Chí Nguyên tam thập nhất niên thất nguyệt sóc nhật, thư Thượng Đô Ngọc Đường chi thự.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 05/11/2018 13:18
An Nam là đất Việt ngày xưa, tuy ở ngoài cửu châu, nhưng có lẽ cũng thuộc bản đồ của vua Hạ Vũ. Từ xưa đặt thứ sử, thái thú cai trị, triêm nhiễm văn hoá, cho nên phong tục cũng có văn vật, không đến đỗi chẳng biết nghĩa lý về việc tôn vua và thân kẻ trên. Thế mà từ ngày liệt vào hàng phiên thuộc Nguyên triều đến nay, nghĩa vụ thân thượng sự quân, có phần không được tỏ rõ. Vì vậy triều đình phải khiến sứ qua lại luôn luôn. Vả đường đường quốc gia của chúng ta, đối với mãnh đất nhỏ xíu ấy, há lại bỏ sót. Đại để, phương pháp làm cho kẻ xa thần phục, một là dùng đức, hai là dùng oai; dùng đức là việc đầu tiên của thánh nhân, dùng oai chỉ là một việc bất đắc dĩ. Vua Thuấn ban bố văn đức ở hai bên thềm, vua Văn Vương sửa sang giáo hoá mà bốn phương thảy đều phục tòng. Nay Thiên tử chính ngự ngôi rồng, nhuần ơn mưa móc, chẳng vì nước An Nam xa xuôi mà bỏ rơi. Vì muốn tuyên bố đức âm, cho nên khiến Lễ bộ thị lang Lý quân Trọng Tân làm sứ giả, phó sứ thì dùng Binh bộ lang trung Tiêu quân Tắc Bình, thực đã chọn người xứng đáng vậy.
Mọi người đều bảo chuyến đi này dễ, riêng tôi lại cho là khó. Vì sao mà bảo khó? Trước đây, các sứ giả đi qua nước ấy, ai cũng đem nghĩa quân thần, cơ hoạ phúc ra hiểu dụ, nếu vua nước ấy có lòng sợ mà nghe, thì nói dễ đắt lời, nếu chẳng thế, thì họ lại trở về báo cáo, thế là hết trách nhiệm, còn xử trí cách nào, đã có quốc gia. Nay hai ông vượt mấy nghìn dặm, mang một phong thư, phải làm sao mở đường cải quá tự tân cho nước ấy. Nếu ù ù ra đi, rồi ù ù trở về thì ai đi chẳng được, cần chi dùng đến chúng ta. Vả lại nhân tình sau khi lo lắng, bỗng thấy mình được không lỗi thì chẳng xiết mừng, nhưng mừng lại sinh ra khinh mạn. Nay ta nhân lúc chúng đương mừng, làm sao cho chúng bỏ lòng trì nghi để đi theo đường mới, thế mới khỏi thẹn với sứ mệnh hoàng hoa của chúng ta. Trọng Tân từng ở ban thượng thư lang, Tắc Bình sung chức phó sứ hai lần, bình tố học hành những gì? Nay hai ông ra đi, một lòng trung nghĩa, không quản đến việc riêng mình và không có thái độ đa ngôn trong khi vào trực vua, chắc chắn thế nào cũng làm xong công việc mà người khác cho là khó làm. Trong tiệc khách không nỡ nghe hát khúc “Dương Quan”, lại không thể bắt chước các bạn chúc lời mạnh giỏi, tỏ ý nhớ nhung, tôi xin viết mấy hàng nầy để tiễn biệt.
Ngày 1 tháng 7 năm Chí Nguyên thứ 31 (1294), viết tại nhà Ngọc Đường (tức Hàn Lâm Viện) tại Thượng Đô.