辛丑晚春尊駕自南陲奉召回京瞻拜喜賦

迢遞戎轅蒞海隅,
庭闈盼仰六經年。
臣勞上達宸旒照,
子道遙顒彩旆旋。
寵召星馳綸綍語,
歡陪春煖綺羅筵。
晨昏邇奉怡愉色,
南極輝光指壽纏。

 

Tân Sửu vãn xuân, tôn giá tự nam thuỳ phụng triệu hồi kinh chiêm bái, hỉ phú

Điều đệ nhung viên lị hải ngung,
Đình vi phán ngưỡng lục kinh niên.
Thần lao thượng đạt thần lưu chiếu,
Tử đạo dao ngung thái bái tuyền.
Sủng triệu tinh trì luân phất ngữ,
Hoan bồi xuân noãn ỷ la diên.
Thần hôn nhĩ phụng di du sắc,
Nam cực huy quang chỉ thọ triền.

 

Dịch nghĩa

Việc quân trấn giữ miền ven biển xa xăm,
Nơi đình vi tôi trông ngóng đã sáu năm nay.
Sự mệt nhọc của bầy tôi được nhà vua chiếu cố,
Đạo làm con từ xa ngóng nhìn bóng cờ quay về.
Ơn trên triệu tới, lời dụ đến nhanh như sao chạy,
Hân hoan hầu tiếp bữa tiệc long trọng đương mùa xuân ấm.
Sớm hôm gần gũi hầu hạ nét mặt vui hoà,
Sao nam cực toả chiếu, chỉ tới triền sao thọ.


Nguyên dẫn: Từ mùa hạ năm Bính Thân [1776], phụ thân tôi giữ chức Hiệp trấn đồn Động Hải [Đồng Hới], ở biên giới lâu ngày, đầu xuân này được trao chức Phó đốc thị. Tôi trong lòng rất mong nhớ, dâng lời thỉnh cầu lên trên, thiết tha nói rõ tình cảnh, lập tức có chiếu chỉ ban xuống cho rằng: Phụ thân tôi vất vả lâu ngày ở ngoài biên, nay cho về hầu cận. Mệnh lệnh tới nơi, phụ thân tôi từ Động Hải đi vào Phú Xuân, trên đường quay về có mang theo một con voi đực và hai cỗ súng lớn tới Kinh để dâng lên vua. Lúc đó tôi sửa sang nhà cửa trước. Khi đón xe về, tôi mừng ghi lại việc đó.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]