昨來黃鶴樓有詩帖寄吳兵部今回遊斯樓再依前韻飛寄

芳草晴川舊去程,
歸軿喜似羽翰生。
秋光淨照樓三疊,
鄉思忙隨雁一聲。
竣事書回郵騎敏,
周諮路遠客舟行。
南關把握相期久,
時盼山臺月色明。

 

Tạc lai Hoàng Hạc lâu hữu thi thiếp ký Ngô Binh bộ, kim hồi du tư lâu tái y tiền vận phi ký

Phương thảo tình xuyên cựu khứ trình,
Quy bình hỉ tự vũ hàn sinh.
Thu quang tịnh chiếu lâu tam điệp,
Hương tứ mang tuỳ nhạn nhất thanh.
Thuyên sự thư hồi bưu kỵ mẫn,
Chu tư lộ viễn khách chu hành.
Nam Quan bả ác tương kỳ cửu,
Thì phán sơn đài nguyệt sắc minh.

 

Dịch nghĩa

Cỏ thơm sông tạnh, vẫn con đường ngày trước,
Nay xe trở về, lòng mừng tưởng như mọc cánh.
Ánh sáng mùa thu lặng lẽ chiếu vào ba tầng lầu,
Lòng nhớ quê hương vội vã bay theo một tiếng nhạn.
Xong việc báo tin về, ngựa trạm chạy nhanh,
Đường sứ xa xôi, thuyền khách đang đi.
Nhớ khi ở ải Nam Quan, cầm tay hẹn hò nhau,
Thỉnh thoảng lại nhìn bóng trăng sáng ở ngôi đài trên núi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]