和潘敬止秋夜泛舟香江原韻

聞道吟船泛水津,
風騷雅致靜風塵。
十年潘海歸帆客,
昨夜香橋審曲人。
月色窺杯浮酒聖,
波光入筆譜詩神。
銀河浪說春心事,
牛女逢秋秋又春。

 

Hoạ Phan Kỉnh Chỉ thu dạ phiếm chu Hương giang nguyên vận

Văn đạo ngâm thuyền phiếm thuỷ tân,
Phong tao nhã trí tĩnh phong trần.
Thập niên Phan hải quy phàm khách,
Tạc dạ Hương Kiều thẩm khúc nhân.
Nguyệt sắc khuy bôi phù tửu thánh,
Ba quang nhập bút phổ thi thần.
Ngân hà lãng thuyết xuân tâm sự,
Ngưu, Nữ phùng thu thu hựu xuân.

 

Dịch nghĩa

Nghe tin có thuyền thơ chèo trên sông
Trang nhã phong tao rửa sạch bụi trần
Là khách lưu ở xứ Phan mười năm nay về lại
Chính người hôm qua đến nghe hát tại nhà hát Hương Kiều
Ánh trăng chiếu sáng đáy ly của ông thánh uống rượu
Sóng chao phản chiếu ánh sáng cho thần thơ viết thơ
Kể mãi chuyện tình về dải Ngân hà
Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau ở mùa thu, thu đi rồi lại xuân tới


Lời tự: “Án sát Quảng Bình” 按察廣平 (Thơ làm trong thời kỳ làm án sát Quảng Bình).
Phan Kỉnh Chỉ là bạn thân của cụ Ưng Bình, tiếng Hán viết là Kính Chỉ, tên Nôm là Kỉnh Chỉ.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Hữu Vinh

Văng vẳng thuyền thơ dạo bến đầu
Bụi đời rửa sạch cảnh phong lưu
Xứ Phan lưu lạc thân làm khách
Nhà hát đêm qua kẻ thưởng chầu
Trăng sáng dòm ly say ngất ngưởng
Sóng chao rọi bút phổ thành câu
Ngân hà một dải bao nhiêu nỗi
Thu lại xuân sang tội Chức, Ngưu

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Nghe có thuyền thơ đậu bến sông,
Bụi trần rửa sạch cảnh tao phong.
Xứ Phan lưu lạc mười năm khách,
Nhà hát Hương Kiều người vọng đông.
Trăng chiếu sáng ly ông thánh rượu,
Sáng triều chiếu bút viết thơ xong.
Chuyện tình kể mãi dòng Ngân hán,
Ngưu, Chức gặp thu trước tiết đông.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời