抵團城寄心友段海翁

琴鶴秋抄偕赴塞,
旌旄冬孟獨臨城。
酒詩陪處懷何恨,
山水題餘讀不成。
萬里树雲隨步遠,
一天風景復誰爭。
雙雙月夜吹簫客,
曾否淒涼念旅情。

 

Để Đoàn Thành ký tâm hữu Đoàn Hải Ông

Cầm hạc thu sao giai phó tái,
Tinh mao đông mạnh độc lâm thành.
Tửu thi bồi xứ hoài hà hận,
Sơn thuỷ đề dư độc bất thành.
Vạn lý thụ vân tuỳ bộ viễn,
Nhất thiên phong cảnh phục thuỳ tranh.
Song song nguyệt dạ xuy tiêu khách,
Tằng phủ thê lương niệm lữ tình.

 

Dịch nghĩa

Cuối thu cùng đàn hạc đến nơi cửa ải
Đầu đông đem cờ quạt đến thành một mình
Tiếp nhau thơ rượu, nhớ càng thêm hận
Vịnh núi sông xong mà đọc chẳng thành
Muôn dặm tình bạn theo bước chân xa
Một trời phong cảnh còn ai tranh nữa
Sánh đôi đêm trăng có người thổi khèn
Có nghĩ chăng đến cảnh người khách lạ lùng


Đoàn Hải Ông 段海翁 tức Đoàn Nguyễn Tuấn 段阮俊 (1751-?), người làng Hải An, huyện Quỳnh Côi (nay là xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ), tỉnh Thái Bình. Ông thi đậu Hương cống triều Lê, sau ra làm quan với triều Tây Sơn đến chức Hàn lâm trực học sĩ, tước hầu. Sau chiến thắng Đống Đa năm 1790 ông được cử đi sứ, khi về được thăng chức Lại bộ Tả thị lang, tước Hải Phái hầu. Ông là anh vợ thi hào Nguyễn Du (vợ Nguyễn Du là Đoàn Thị Tộ) và là bạn thân của Nguyễn Đề.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (5 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Ngô Linh Ngọc

Cuối thu, đàn hạc cùng lên ải
Đông tới vào thành bóng lẻ loi
Thơ rượu tiếp hoài thêm gợi nhớ
Núi sông vịnh mãi đọc không xuôi
Cây, mây vời khuất theo chân bước
Cảm hứng cùng chia thiếu bóng người
Dưới nguyệt kề đôi ai thổi sáo
Nhớ chàng giá lạnh kẻ phương trời


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Trọng Chánh

Đàn hạc cuối thu cùng đến ải,
Một mình cờ quạt, thành đầu đông.
Tiếp nhau thơ rượu càng thêm hận,
Vịnh núi sông xong đọc chẳng thành.
Muôn dậm tình thân theo bước tiễn,
Một trời phong cảnh có ai tranh.
Sánh đôi đêm nguyệt tiêu ai thổi,
Có nghĩ nên chăng, khách một mình.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Phiên âm và chữ

1. Phiên âm: Câu 1 "Cầm hạc thu sao giai phó tắc,"Dịch là"Cuối thu cùng đàn hạc đến nơi cửa ải" chữ 塞Tắc/Tái, nên đọc là Tái nghĩa là Đất hiểm yếu, Chỗ canh phòng ngoài biên giới, Như: Đỗ Phủ 杜甫: Tái thượng phong vân tiếp địa âm 塞上風雲接地陰 (Thu hứng 秋興) Nơi quan ải, gió mây nối liền đất âm u.
2. Chữ Câu 7: 雙雙月夜吹蕭客/Song song nguyệt dạ xuy tiêu khách, dịch là"Sánh đôi đêm trăng có người thổi khèn”. Vậy chữ Tiêu/蕭 nghĩa là: Một loại cỏ thơm: cỏ tiêu, cỏ hao, Vắng vẻ, buồn bã, Trang nghiêm, cung kính. Cần được thay bằng chữ Tiêu/簫 nghĩa là; Ống tiêu, tức là cái sáo thổi dọc.
Như: Nguyễn Du 阮攸: Tiêu cổ đông đông sơ xuất môn 簫鼓鼕鼕初出門 (Minh Giang chu phát 明江舟發) Tiếng tiêu, tiếng trống ầm ĩ lúc mới ra đến cửa (sông).

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Đàn hạc cuối thu cùng tới ải
Đầu đông cờ tiết lẻ vào thành
Rượu thơ thù tiếp nhớ thêm hận
Đề núi sông rồi đọc chẳng rành
Vạn dặm bạn bè theo bước mãi
Một trời phong cảnh với ai tranh  
Sánh đôi trăng sáng khèn người thổi
Tình khách thê lương nghĩ có đành.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Cuối thu đàn hạc ải quan,
Đầu đông cờ quạt mình mang đến thành,
Tiếp nhau thơ rượu, hận mang,
Vịnh xong sông núi chẳng thành đọc qua,
Tình thân theo bước chân xa,
Một trời phong cảnh còn ai tranh mình,
Sánh đôi đêm người thổi khèn,
Nghĩ chăng lạnh giá kẻ bên chân trời.

11.00
Trả lời