Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Bắc hành tạp lục
魂兮!魂兮!胡不歸,
東西南北無所依。
上天下地皆不可,
鄢郢城中來何為。
城郭猶是人民非,
塵埃滾滾汙人衣。
出者驅車入踞坐,
坐談立議皆皋夔。
不露爪牙與角毒,
咬嚼人肉甘如飴。
君不見湖南數百州,
只有瘦瘠無充肥。
魂兮!魂兮!率此道,
三皇之後非其時。
早斂精神返太極,
慎勿再返令人嗤。
後世人人皆上官,
大地處處皆汨羅。
魚龍不食豺虎食,
魂兮!魂兮!奈魂何。
Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ toạ,
Toạ đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà?
Hồn ơi! hồn ơi! sao chẳng về?
Đông tây nam bắc không chốn nương tựa
Lên trời xuống đất đều không được
Còn trở về thành Yên thành Sính làm gì?
Thành quách còn đây, nhân dân đã khác
Bụi bặm mù bay làm dơ bẩn quần áo
Ra ngoài thì ruổi xe, vào nhà ngồi chễm chệ
Đứng ngồi bàn bạc như hai bậc hiền thần Cao, Quỳ
Không để lộ ra nanh vuốt nọc độc
Mà cắn xé thịt người ngọt xớt
Không thấy sao mấy trăm châu ở Hồ Nam
Chỉ có người gầy gò, không ai béo tốt
Hồn ơi! hồn ơi! nếu cứ noi theo lối đó
Thì sau Tam Hoàng không hợp thời nữa
Hãy sớm thu góp tinh thần trở lại Thái Cực
Đừng trở lại đây nữa để người ta mai mỉa
Đời sau đều là Thượng Quan
Khắp mặt đất đều là sông Mịch La
Cá rồng không ăn, sói hùm cũng nuốt
Hồn ơi! hồn ơi! hồn làm sao đây?
Trang trong tổng số 1 trang (8 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 23/07/2005 03:57
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi ngày 20/09/2005 23:28
Hồn ơi! sao chẳng trở về?
Đông tây nam bắc chở che chốn nào?
Dù đất thấp trời cao chẳng ổn,
Yên, Dĩnh đành lạc lõng như nhau.
Thành đây, dân cũ còn đâu,
Bụi đời mù mịt dơ màu áo xưa.
Ra xe đưa, vào ngồi chễm chệ,
Bàn bạc xem ra vẻ hiền thần.
Vuốt nanh, nọc độc chứa ngầm,
Thịt người cắn xé như đường nuốt ngon!
Hồ Nam kia thấy không trăm xóm,
Toàn những người gầy ốm xanh xao.
Hồn ơi! lối ấy theo nhau,
Đời Tam Hoàng trước lấy đâu hợp thời.
Thu tinh thần về nơi Thái cực,
Chớ về đây người chực mỉa mai.
Thượng quan thời buổi ai ai,
Khắp trên đất rộng sông dài: Mịch La!
Cá rồng nuốt, sói hùm tha,
Hồn ơi! hồn hỡi! hồn mà làm sao?
Gửi bởi Vanachi ngày 23/07/2005 04:00
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử ngày 08/06/2019 08:08
Hồn hỡi hồn sao không về chứ,
Khắp phương trời không chỗ tựa nương.
Lên trời xuống đất hết đường,
Mà thành Yên, Dĩnh chớ mường để chân.
Thành quách thế, nhân dân khác hẳn,
Bụi bay, trông nhơ bẩn áo người.
Vênh vang xe cộ lâu đài,
Dứng ngồi bàn tán sánh vai Cao, Quỳ.
Họ ngoài mặt không thò nanh vuốt,
Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon.
Hồ Nam kia mấy trăm chòm,
Gầy còm xơ xác không còn thịt da.
Nếu hồn cứ thiết tha lối trước,
Sau Tam Hoàng không được hợp thời.
Chi bằng sớm liệu chầu trời,
Chớ về đây nữa mà người quở quang.
Đời sau họ Thượng Quan hết thảy,
Khắp nơi nơi dòng chảy Mịch La,
Cá không rỉa, hùm cũng tha
Hồn ơi! Hồn hỡi! Biết là làm sao?
Gửi bởi tran hoang xa ngày 29/10/2012 05:23
Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục là ba tập thơ chữ Hán của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Bao trùm lên hàng trăm bài thơ là một không gian bao la mênh mông, với bao nhiêu chuyện người, chuyện đời trong mấy nghìn năm lịch sử của Việt Nam và Trung Hoa với một tấm lòng, một cái nhìn nhân hậu, sâu sắc, đúng là “Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như” như Tố Hữu đã viết.
Bài thơ Phản chiêu hồn rút trong Thanh Hiên thi tập mang tính độc đáo như một bài bút chiến sắc bén, chứa chan tinh thần nhân đạo. Thi phẩm này được viết theo thể cổ phong, thất ngôn trường thiên, gồm có 20 câu. Bốn câu đầu nói với “hồn” đừng về nữa vì không còn đường về. Tám câu tiếp theo, nhà thơ nói với “hồn” về một thế giới đau thương: Nhân dân lầm than, cái ác ngự trị. Tám câu cuối khuyên “hồn” phải “sớm liệu chầu trời”, nếu trở về nước Sở lần nữa vẫn không thoát khỏi cái chết thảm khốc.
“Hồn” được nói đến trong bài thơ là Khuất Nguyên, quan đại thần nước Sở, sống vào khoảng cuối thế kỉ thứ 4 đầu thế kỉ thứ 3 trước Công nguyên. Ông để xướng nhiều cải cách tiến bộ nhằm phục hưng nước Sở, nhưng đã bị bọn gian thần gièm pha. Sở Tương Vương đã cách chức và đày ông ra đất Giang Nam. Ông đã nhảy xuống sống Mịch La tự tử. Sau khi Khuất Nguyên chết, Tống Ngọc thương tiếc làm bài “Chiêu hồn” gọi hồn Khuất Nguyên trở về nước Sở. Thi hào Nguyễn Du đã viết 5 bài thơ về Khuất Nguyên “mà bài nào cũng thấm thía” (Hoài Thanh). Tài trí tuyệt vời, tấm lòng thanh cao, tình cảm éo le của Khuất Nguyên đã được Nguyễn Du cảm nhận, chia sẻ với tất cả niềm kính phục và đồng điệu sâu sắc.
Phần đầu bài thơ là một tiếng gọi hồn ai oán. Vừa ai oán vừa van xin. Câu cảm thán cũng là câu hỏi tu từ cất lên như tiếng khóc. Tống Ngọc gọi hồn Khuất Nguyên về làm gì nữa vì khắp 4 phương và 2 phía “lên trời xuống đất” không còn nơi nào cho hồn “nương tựa cả”. Hai chữ “hồn hề!” trong bài thơ chữ Hán điệp lại hai lần như liếng kêu xót thuơng não nùng:
Hồn hỡi hồn sao không về chứ?Thành Yên, thành Dĩnh đều thuộc nước Sở, nay là tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Thành Dĩnh là kinh đô nước Sở. Hồn đã tuyệt lộ, đã hết đường về. Ngay cả cố quốc, cố đô của Khuất Nguyên cũng chẳng còn đất cho hồn dung thân!
Khắp phương trời không chỗ tựa nượng.
Lên trời xuống đất hết đường
Mà thành Yên Dĩnh chớ mường để chân?
Thành quách thế, nhân dân khác hản,Hình ảnh bọn nịnh thần được đặc tả bằng những nét rất điển hình lột trần bộ mặt ghê tởm của chúng, sống xa hoa trên xương máu nhân dân nước Sở: “ngựa ngựa xe xe”. Cơ hội, kiêu ngạo “vênh vênh váo váo”. Vô cùng tàn ác, tham lam nhưng đạo đức giả. Chúng chẳng khác nào lũ thú dữ ghê tởm:
Bụi bay, trông nhơ bẩn ảo người.
Vênh vang xe cộ lâu đài,Cao, Quỳ là Cao Dao và Quỳ là hai vị quan giỏi thời Nghiêu, Thuấn xa xưa. Sự lên mặt, hợm hĩnh của bọn nịnh thần bị vạch trần qua một tỉ dụ: “Đứng ngồi bàn tán sánh vai Cao, Quỳ”. Chúng trở thành một loại người-thú rất đáng sợ “vuốt nanh, sừng và nọc độc” nhưng lại gian ngoan, xảo quyệt, lúc nào cũng giấu kín, “không để lộ” mọi thủ đoạn, hành động dã man: cắn xé thịt người, ngọt xớt như đường. Cấu trúc câu thơ bằng nghệ thuật tương phản để tố cáo bộ mặt xấu xa; thủ đoạn thâm độc, hành động tàn bạo của bọn quan lại, bọn quý tộc nước Sở đang trở thành kè thù của nhân dân. “Hồn” vốn thanh cao, trong sạch… làm sao có thể về nước Sở để cùng “sống” với bọn người-thú ấy được. Câu thơ với bao chi tiết hiện thực, với bao hình ảnh dữ dội, biểu thị cái yêu, cái ghét của Nguyễn Du mãnh liệt, chân thành, sâu sắc. Nội dung tố cáo hiện thực được miêu tả một cách hình tượng, hàm súc và gợi cảm. Cả một đất nước đau thương, cả một vùng quê rộng lớn xơ xác. Nhân dân bị áp bức và bị bóc lột đến tận xương tuỷ:
Đứng ngồi bàn tấn sánh vai Cao, Quỳ
Họ ngoài mặt không thò nanh vuốt
Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon
Hồ Nam kia mấy trăm chòmHình ảnh bọn vua chúa thống trị, bọn nịnh thần và hình ảnh nhân dân được đặt trong thế đối lập đã làm nổi bật sự bất công, vô nhân đạo của một xã hội điêu linh suy tàn mà “hồn không chỗ tựa nương” nữa! Chống lại việc chiêu hồn, chống bài Chiêu hồn là do nguyên cớ như vậy.
Gầy còm xơ xác không còn thịt da!
Đời sau họ Thượng Quan hết thảyĐâu chỉ có bọn nịnh thần Thượng Quan mà khắp mọi nơi trên nhân gian đầy rẫy cái ác và cạm bẫy giết người. Kết thúc bài thơ là một câu hỏi tu từ đầy ám ảnh. Tính chiến đấu và phê phán càng trở nên mạnh mẽ, sâu sắc:
Khắp nơi nơi dòng chày Mịch La
Cá không rỉa, hùm cũng thaCâu thơ dịch khá hay, lột tả được hồn thơ nhưng chưa thật đầy đủ nghĩa so với nguyên tốc: “Ngư Long bất thực, sài hổ thực”. “Ngư Long” là cá, rồng, “sài hổ” là hùm, sói- hình ảnh tượng trưng cho cái ác, cho mọi thế lực dã man trên cõi đời! Nhận xét về bài thơ này, thi sĩ Xuân Diệu viết: Cái buổi chiều thu tê tái trong thơ chữ Hán đây, bỗng nhiên có sấm chớp mưa gió bão bùng, có bài Phản chiêu hồn, căm giận trên đầu tóc dựng”. Hầu như bài thơ nào viết về Khuất Nguyên, thi hào Nguyễn Du cũng đều chỉ ra “cái nọc độc” gây ra mọi đau khổ cho nhân dân:
Hồn ơi! Hồn hỡi! Biết là làm sao?
Hồn, nếu thật về, không chỗ ở,Nhà văn Hoài Thanh nói lên cảm nhận mấy câu kết trong bài Phản chiêu hồn ở đây cũng như ở Truyện Kiều vẫn một cái nhìn rất bi đát và đầy phẫn uất đối với cuộc đởi. Nhưng ở đây cũng như ở Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa nhìn rõ nguồn gốc sâu xa của mọi điều ngang trái” – (Nguyễn Du, một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn).
Rắn rồng quỷ quái khắp nhân gian
(Tháng năm xem đua thuyền)
Gửi bởi Trương Việt Linh ngày 06/09/2014 16:31
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Trương Việt Linh ngày 16/11/2018 20:53
Hồn ơi! Hồn chẳng về sao
Đông, Tây, Nam, Bắc nơi nào tựa nương
Lên trời xuống đất khôn đường
Mà thành Yên Dĩnh vấn vương nỗi gì?
Thành quách cũ người thì đã khác
Bụi mịt mù y phục bẩn nhàu
Lâu đài xe cộ lau nhau
Sánh mình ngang tựa Cao Quì ghê thay
Ngoài bộ mặt không bày nanh vuốt
Nhai thịt người ngọt xớt như đường
Trăm châu ở đất Hồ nam
Ốm xơ ốm xác gầy còm thảm thay
Hồn ơi hồn nếu quay lối cũ
Sau Tam Hoàng thế sự khác rồi
Thôi thôi sớm liệu về trời
Lại đây chi nữa cho người mỉa mai
Họ Thượng Quan đời nay khắp thảy
Dòng Mịch La tuôn chảy khắp nơi
Cá không đớp, hùm cũng xơi
Biết làm sao hỡi! Hồn ơi! Hỡi hồn!
Gửi bởi Lương Trọng Nhàn ngày 26/05/2018 18:52
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Lương Trọng Nhàn ngày 21/10/2020 10:34
Hồn ơi! hồn hỡi! chẳng về?
Khắp nơi không chốn vỗ về bốn phương.
Lên trời xuống đất hết đường,
Thành Yên thành Dĩnh vấn vương làm gì?
Thành còn dân đổi thay đi,
Áo quần vấy bẩn bụi thì mù bay.
Ngênh ngang xe cộ lâu đài,
Đứng ngồi bàn tán sánh tày Quỳ, Cao.
Vuốt nanh không để lộ nào,
Người ngon ngọt cắn xé vào không lâu.
Hồ Nam không thấy trăm châu,
Gầy gò, ai béo tốt đâu mấy người.
Bấy lâu theo lối hồn ơi!
Tam Hoàng sau nữa hết thời còn đâu.
Sớm về Thái Cực trời chầu,
Đừng về đây nữa để sau chê cười.
Thượng Quan sẽ được sau đời,
Khắp nơi khắp chốn khác thời Mịch La.
Sói hùm nuốt cá rồng tha,
Hồn ơi! hồn hỡi! biết là sao đây?
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 13/12/2023 23:50
Hồn ơi, hồn ơi. sao không về?
Nương tựa vào đâu? Ôi bốn bề!
Lên trời xuống đất đều không thể,
Trong thành Yên, Sính về làm chi?
Thành quách vẫn thế, người đã khác,
Cát bụi cuồn cuộn lấm xiêm y.
Kẻ ra xe ngựa, và kênh kiệu,
Bàn tán, lên mặt làm Cao, Quỳ.
Che đậy vuốt nanh cùng nọc độc,
Nhai nuốt thịt người ngọt xớt đi.
Hồn có thấy Hồ Nam mấy trăm châu.
Chỉ những gầy nhom, ai béo phì?
Hồn ơi, nếu cứ theo đường trước,
Sau đời Tam Hoàng, thôi hết thì!
Sớm lượm tinh thần về thái cực,
Đừng về đây nữa, người khinh khi.
Đời sau người người đều Thượng quan,
Mặt đất đâu chẳng dòng Mịch La.
Cá tôm không rỉa, hùm sói nuốt,
Hồn ơi, hồn hỡi! Biết sao mà!
Gửi bởi NgocNga.net ngày 21/08/2015 18:58
Có 1 người thích
Cấu xé người nhai nuốt ngọi ngon.
Gửi bởi NgocNga.net ngày 07/06/2019 19:42
Có 1 người thích
Câu thơ 'Không rỉa, hùm cũng tha' trong bản dịch thiếu chữ Cá ở đầu