Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:

1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính

2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu từ câu 145)

3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm

Tảo mộ viếng Đạm Tiên, bâng khuâng tình tứ;
Du xuân gặp Kim Trọng, bẽn lẽn duyên ta.


Ngày xuânTiết vừa con én đưa thoi,
40. Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hộigọiđạp thanh.
45. Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nennêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
50. Thoi vàng búa rắc, tro tiềntàn giấy bay.

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lầndần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55. Nao nao dòng nước uốn quanh,
DịpNhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Sè sè nấmnắm đất bên đàng,
Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh,
Rằng: “Sao trong tiết thanh minh,
60. Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?”
Vương Quan mớido dẫn gần xa:
Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi.
Nổi danh tài sắc một thìkỳ,
Xôn xao ngoài cửa, hiếmkém gì yến anh.
65. PhậnKiếp hồng nhan có mong manh,
Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương.
Có người khách ở viễn phương,
Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
Thuyền tình vừa ghé đếntới nơi,
70. Thì đà trâm gãy, bình rơi bao giờ!
Buồng không lạnh ngắtlạnh ngấtlặng ngắt như tờ,
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh.
Khóc than khôn xiết sự tình,
Khéo vô duyên bấymấy là mình với ta.
75. Đã khôngđành duyên trước chăngchẳng mà,
Thì chi chút ướcThà chi chút đíchThời chi chút đích gọi là duyên sau.
Sắm sanh nếp tử, xe châu,
Vùi nôngVùi hồng một nấmnắm, mặc dầu cỏ hoa.
Trải bao thỏ lặnlận, ác tà,
80. Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!”

Lòng đâu sẵn mónmối thương tâm,
ThoắtThoạt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa:
“Đau đớn thay, phận đàn bà!
Lời rằng bạc mệnhphận bạc cũng là lời chung.
85. Phũ phàng chi bấy hoá công!
Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha,
Sống làm vợ khắp người tathì tình chẳng riêng ai,
Hại thay, thác xuống làm ma không chồngKhéo thay, nằm xuống là ma không chồngKhéo thay, thác xuống làm ma không chồngKhéo thay, thác xuống ra người tình không!
Nào người phượng chạ, loan chung,
90. Nào người tíchtiếc lục tham hồng là ai?
Đã không kẻ đoái, người hoài,
Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
Gọi là gặp gỡ giữa đường,
Hoạ là người dưới suối vàng biết cho.

95. Lầm rầm khấn khứavái nhỏ to,
Sụp ngồi, đặt cỏvà gậtbá cỏ trước mồ, bước ra.
Một vùng cỏ áy bóng tà,
Gió hiu hiu thổi một và bôngngọn lau.
RútChiếc trâm sẵn giắt mái đầu,
100. Vạch da cây, vịnh bốn câu ba vầntám câu bốn vần.
Lại càng mê mẩn tâm thần,
Lại càng đứng lặngsững tần ngần chẳngchưa ra.
Lại càng ủ dột nét hoa,
Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài!

105. Vân rằng: “Chị cũng nực cười,
Khéo dư nước mắt khóc người đời xưacổ sơ!”
Rằng: “Hồng nhan tự nghìnthuở xưa,
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.
Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110. Thấy người nằm đóđấy, biết sau thế nào?”
Quan rằng: “Chị nói hay sao,
Mỗi lờiMột điềuMột lời là một vận vào khó nghe!
Ở đây âm khí nặng nề,
Bóng chiều đã ngả, dặm vềhoè còn xa.”
115. Kiều rằng: “Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh.
Dễ haythay tình lại gặp tình,
Chờ xem, ắt thấy hiển linh bây giờ.”

Một lời nói chửa kịp thưa,
120. Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay,
Ào ào đổ lộc, rungđưa cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giàyhài từng bước in rêu rành rành.
125. Mặt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: “Này thực tinh thành chẳng xa.
Hữu tình ta lại gặpbiết ta,
ChớChẳng nề u hiển, mới là chị em.”
Đã lòng hiển hiện cho xem,
130. Tạ lòng, nàng lại nối thêm vài lời.
Lòng thơ lai láng bồi hồi,
Gốc cây, lại vạch một bài cổ thi.

Dùng dằng nửa ở nửa vềdở ở dở về,
Nhạc vàng đâu đãbỗng tiếng nghe gần gần.
135. Trông chừng thấy một văn nhân,
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng.
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu dòn,
140. Cỏ pha mùi áo nhuộm non da trời.
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thểthấy cây quỳnh, cành giao.
[...]
145. Chàng Vương quen mặt ra chào,
Hai Kiều e lệmặt nép vào dưới hoa.
Nguyên người quanh quất đâu xa,
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậuphú quý, bậc tài danh,
150. Văn chương nết đất, thông minh tính trời.
PhongThiên tài mạo tuyệttót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.

Chung quanh vẫn đất nước nhà,
Với Vương Quanông, trước vẫn là đồng thântương thânsong thân.
155. Vẫn nghe thơm nức hương lân,
Một nền Đồng Tước khoá xuân hai Kiều.
Nước non cách mấy buồng thêunguồn đàobuồng điều,
Những là trộm dấu, thầm yêu chốc mòng.
May thay giải cấu tương phùng,
160. Gặp tuần đố láđỏ lá thoả lòng tìm hoa.
Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
Xuân lan, thu cúc, mặn mà cả haiđôi.

Người quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165. Chập chờn cơn tỉnh, cơn mê,
Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn.
Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lênxuống ngựa, người còn ghé theo.
Dưới dòngcầukhe nước chảy trong veo,
170. Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt thala thađã ra.


Đoạn này ứng với Hồi 1 trong nguyên truyện: “Vô tình hữu tình mạch lộ điếu Đạm Tiên; Hữu duyên vô duyên phách không ngộ Kim Trọng” 無情有情陌路弔淡仙;有緣無緣劈空遇金重 (Vô tình hay hữu tình, giữa đường viếng mộ Đạm Tiên; Hữu duyên hay vô duyên, bỗng không gặp chàng Kim Trọng).


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Cảm nhận về bức tranh “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều”

Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải không, sau bức chân dung giai nhân là bức hoạ về cảnh sắc mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của trai tài, gái sắc, của chị em Thuý Kiều? Đoạn trích Cảnh ngày xuân gồm có 18 câu, từ câu thứ 39 đến câu 56 của Truyện Kiều tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh và tả tình của đại thi hào Nguyễn Du. Một vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan toả, rồi lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.

Bốn câu thơ đầu, mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời rộng bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như “đưa thoi”. Cánh én màu xuân thật thân mật biết bao. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng; thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Câu thành ngữ - tục ngữ: “Thời gian thấm thoát như thoi đưa, như ngựa chạy, như nước chảy qua cầu” đã nhập vào hồn thơ Tố Như tự bao giờ?

Sau cánh én “đưa thoi” là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi “chín chục đã ngoài sáu mươi”. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi sĩ xưa nay thật là hay và ý vị. Nào là “xuân hướng lão” (Ức Trai), nào cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu trong Đường thi. Nào là cánh bướm rối rít bay trong thơ Trần Nhân Tông. Còn là “xuân hồng” (Xuân Diệu), “mùa xuân chín” (Hàn Mặc Tử)... Với Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng ba, “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Hai chữ “thiều quang” đã gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời “Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên” (Nguyên tiêu – Hồ Chí Minh).

Còn là sắc “xanh” mơn mởn. ngọt ngào của cỏ non trải dài, trải rộng như tấm thảm “tận chân trời”. Là sắc “trắng” tinh khôi, thanh khiết của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc khoe hương “một vài bông hoa”:

Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo:
Phương thảo liên thiên bích
Lệ chi sổ điểm hoa.
Hai chữ “trắng điểm” là nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa: bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: trên cái nền xanh của cỏ non là một vài bông hoa lê “trắng điểm”. Giữa diện và điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én “đưa thoi”, là màu hồng của ánh thiều quang, là “khát vọng mùa xuân” ngây ngất, say đắm lòng người:
Nhìn hoa đang hé tưng bừng
Khao khát mùa xuân yên vui lại đến
(Ca khúc Khát vọng mùa xuân – Mô-da)
Cảnh mùa xuân là bức tranh hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống của mỗi chúng ta. Phải chăng, thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết nên vần thơ xuân đẹp này:
Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đời,
Tháng giêng hai vút trời bay cánh én...
(Ý nghĩ mùa xuân)
Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội mùa xuân: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh” trong tiết tháng Ba. Điệp ngữ “lễ là... hội là...” gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ tiếp diễn đã bao đời nay:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè...
(Ca dao)
Cảnh trẩy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Có biết bao “yến anh” trẩy hội trong niềm vui “nô nức”, hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân “dập dìu” vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập ngựa xe cuồn cuộn “như nước”, áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt, đông vui trên các nẻo đường” như nêm”. Các từ ngữ “nô nức”, “dập dìu”, các ẩn dụ so sánh (như nước, như nêm) đã gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra khắp mọi miền quê đất nước. Trẻ trung và xinh đẹp, sang trọng và phong lưu:
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Trong đám tài tử, giai nhân “gần xa” ấy, có ba chị em Kiều. Câu thơ “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân” mới đọc qua tưởng như chỉ là một thông báo. Nhưng sâu xa hơn, nó ẩn chứa bao nỗi niềm: chờ trông mong đợi, ngày lễ tảo mộ, ngày hội đạp thanh đến để du xuân trong những bộ quần áo đẹp đẽ đã chuẩn bị, đã “sắm sửa”... Có biết bao “bóng hồng” xuất hiện trong đám tài tử, giai nhân ấy? Ai đã từng đi hội chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử...mới cảm thấy cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng, tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du đã nói đến.

Thơ là nghệ thuật của ngôn từ. Các từ ghép: yến/anh, chị/em, tài/tử, giai/nhân, ngựa/xe, áo/quần (danh từ), nô/nức, sắm/sửa, dập/dìu (tính từ, động từ) được thi hào sử dụng, chọn lọc tinh tế, làm sống lại cái không khí lễ hội mùa xuân, một nép đẹp văn hoá lâu đời của phương Đông, của Trung Hoa, của Việt Nam chúng ta, và nếp sống “phong lưu” của hai chị em Kiều.
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Đời sống tâm linh, phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ được Nguyễn Du nói đến với nhiều cảm thông, san sẻ. Cõi âm và cõi dương, người đang sống và kẻ đã khuất, hiện tại và quá khứ đồng hiện lên trên những gò đống “ngổn ngang” trong lễ tảo mộ. Cái tâm thánh thiện, niềm tin phác thực dân gian đầy ắp nghĩa tình. Các tài tử, giai nhân, và ba chị em Kiều không chỉ nguyện cầu cho những vong linh mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao ước mơ về tương lai hạnh phúc cho tuổi xuân mỗi khi mùa xuân về. Có thể sau hai trăm năm, ý nghĩ của mõi chúng ta có ít nhiều thay đổi trước cảnh “Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”, nhưng giá trị nhân bản của vần thơ Nguyễn Du vẫn làm ta xúc động!

Sáu câu thơ cuối đoạn ghi lại cảnh chị em Thuý Kiều đi tảo mộ đang bước dần về nhà. Mặt trời đã “tà tà” gác núi. Ngày hội, ngày vui đã trôi qua nhanh:
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Hội tan sao chẳng buồn? Ngày tàn sao chẳng buồn? Nhịp thơ chậm rãi. Nhịp sống như ngừng trôi. Tâm tình thì “thơ thẩn”, cử chỉ thì “dang tay”, nhịp chân thì “bước dần”. Một cái nhìn man mác, bâng khuâng: “lần xem...” đối với mọi cảnh cật. Tất cả đều nhỏ bé. Khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê”. Phong cảnh “thanh thanh”. Dòng nước thì “nao nao” uốn quanh. Dịp cầu thì “nho nhỏ” bắc ngang ở cuối ghềnh. Cả một không gian êm đềm, vắng lặng. Tâm tình của chị em Kiều như dịu lại trong bóng tà dương. Như đang đợi chờ một cái gì sẽ đế, sẽ nhìn thấy? Cặp mắt cứ “lần xem” gần xa:
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Các từ láy tượng hình: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” gợi lên sự nhạt nhoà của cảnh vật và sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan. Nỗi niềm man mác bâng khuâng thấm sâu, lan toả trong tâm hồn của giai nhân đa tình, đa cảm.

Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng rất sống động, gần gũi, thân quen đối với bất cứ người Việt Nam nào. Không còn xa lạ nữa, vì ngọn tiểu khê ấy, dịp cầu nho nhỏ ấy, là màu sắc đồng quê, là cảnh quê hương đất nước mình. Tính dân tộc là một nét đẹp đậm đà trong thơ Nguyễn Du, nhất là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác.

Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”. Trong “Thương nhớ mười hai”, Vũ Bằng không nén nổi cảm xúc của mình mà phải thốt lên: “Mùa xuân của tôi... Cái mùa xuân thần thánh của tôi... Đẹp quá đi, mùa xuân ơi – mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến...” Và chúng ta muốn nói thêm: “Đẹp quá đi mùa xuân của đất nước thân yêu! Vui quá đi, trẻ đẹp quá đi cảnh mùa xuân, cảnh trẩy hội xuân trong Truyện Kiều”. Mùa xuân đem đến cho ta bao ước vọng. Sắc xuân, tình xuân như nở hoa, ướp hương trong lòng ta.

Hỡi những nàng Kiều gần xa có nghe thấy tiếng nhạc vàng của chàng Kim Trọng trong ngày xuân đẹp từ xa đang vọng tới?...

43.75
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Phân tích đoạn thơ “Cảnh ngày xuân” trong “Truyện Kiều”

Một trong những nét đặc sắc nghệ thuật Truyện Kiều của Nguyễn Du là cách phác hoạ tô điểm những bức tranh thiên nhiên tương xứng với hình ảnh tâm trạng của Thuý Kiều. Cảnh ngày xuân là bức phong cảnh mùa xuân và cảnh du xuân của chị em Thuý Kiều, một bức tranh tươi đẹp, trong sáng, sống động nhưng vẫn hàm ẩn những nét buồn, dự cảm một tương lại gần của Thuý Kiều.

Bốn câu đầu với bút pháp cổ điển tác giả tả cảnh thiên nhiên theo trình tự không gian, thời gian, bút pháp chấm phá, tượng trưng ước lệ. Bốn câu mở đầu khái quát phong cảnh thiên nhiên với những nét đặc trưng của mùa xuân.

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu mở đầu vừa gợi không gian mùa xuân, vừa diễn tả sự chảy trôi của thời gian. Ngày xuân thấm thoắt qua mau, 90 ngày xuân nay tiết trời đã sang tháng ba – Tháng cuối cùng nhưng trên bầu trời khoáng đạt cao rộng, những cánh én vẫn rộn ràng, trao liệng như thoi đưa. Dưới mặt đất mùa xuân vẫn đang ở kì xung sức. Bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân ở hai câu thơ: Cỏ non, bông hoa... Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu tô điểm bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt diệu, tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống – Cỏ non, khoáng đạt, trong trẻo – xanh tận chân trời. Nhẹ nhàng thanh khiết trắng điểm một vài bông hoa. Chữ trắng được thêm vào đảo lên trước động từ và danh từ tạo sự bất ngờ, mới mẻ, khiến nét vẽ cảnh vật trở lên có hồn, tinh khôi, thanh thoát. Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân thật đẹp, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, chất gợi. Qua bức tranh thơ đó người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, ấm áp của mùa xuân.
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Nguyễn Du tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và hoạt cảnh du xuân của con người. Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ tìm về bóng hình quá khứ. Đó là lễ hội truyền thống, Nguyễn Du chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự xự ở hai hoạt cảnh này. Lễ là tảo mộ, thăm viếng, sửa sang quét tước phần mộ để tưởng nhớ người thân tổ tiên đã khuất. Hộ là đạp thanh: Lễ và hội trong tiết thanh minh là sự giao hoà độc đáo giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đã qua và cái sắp tới. Chứng tỏ nhà thơ rất hiểu và trân trọng những giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Bốn câu thơ sau là ngôn ngữ tự xự tả bức tranh của lễ hội. Một hệ thống danh từ, động từ, tích từ: Gợi lên không khí lễ hội thật rộn ràng. Các danh từ như: “yến anh”, “chị em”, “tài từ”, “giai nhân” gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến hội, các động từ “sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội, các tính từ “gần xa”, “nô nức” làm rõ hơn tâm trạng của người đi hội, đồng thời cách nói ẩn dụ nô nức, yến anh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân tất bật, nhộn nhịp nhất là những nam thanh nữ tú, tài tử, giai nhân. Thông qua việc du xuân của họ, tác giả khắc hoạ một truyền thống văn hoá thật đẹp và sống động.

Sáu câu thơ cuối tả khung cảnh chị em du xuân trở về:
Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Nắng nhẹ, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Đến đây không khí nhộn nhịp, dộn dàng của lễ hội không còn nữa tất cả đang nhạt dần. Những từ láy: Tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái, cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật, đó là cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày du xuân đang còn và sự linh cảm về điềm sắp xảy ra đã xuất hiện.

Mỗi bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đều nhuốm màu tâm trạng, trong bức tranh thiên nhiên cảnh ngày xuân, tâm trạng con người cũng biến đổi theo cảnh vật, sáng – chiều, đầu khổ – cuối khổ và linh cảm tương lai đó là tài nghệ tả cảnh ngụ tình.

tửu tận tình do tại
64.17
Chia sẻ trên FacebookTrả lời