Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Du » Truyện Kiều » Hồi 02: Kiều chơi tết thanh minh
Ngày xuân con én đưa thoi,Hai câu mở đầu vừa gợi không gian mùa xuân, vừa diễn tả sự chảy trôi của thời gian. Ngày xuân thấm thoắt qua mau, 90 ngày xuân nay tiết trời đã sang tháng ba – Tháng cuối cùng nhưng trên bầu trời khoáng đạt cao rộng, những cánh én vẫn rộn ràng, trao liệng như thoi đưa. Dưới mặt đất mùa xuân vẫn đang ở kì xung sức. Bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân ở hai câu thơ: Cỏ non, bông hoa... Thảm cỏ non trải rộng tới chân trời là gam màu tô điểm bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Màu sắc có sự hài hoà tới mức tuyệt diệu, tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống – Cỏ non, khoáng đạt, trong trẻo – xanh tận chân trời. Nhẹ nhàng thanh khiết trắng điểm một vài bông hoa. Chữ trắng được thêm vào đảo lên trước động từ và danh từ tạo sự bất ngờ, mới mẻ, khiến nét vẽ cảnh vật trở lên có hồn, tinh khôi, thanh thoát. Bốn câu thơ tả cảnh mùa xuân thật đẹp, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, chất gợi. Qua bức tranh thơ đó người đọc cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm tha thiết trước cảnh sắc thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, ấm áp của mùa xuân.
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thanh minh trong tiết tháng ba,Nguyễn Du tái hiện cảnh lễ hội trong tiết thanh minh và hoạt cảnh du xuân của con người. Con người trong tiết thanh minh đi sửa sang phần mộ tìm về bóng hình quá khứ. Đó là lễ hội truyền thống, Nguyễn Du chứng tỏ tài năng bậc thầy về ngôn ngữ ngay ở câu thơ tự xự ở hai hoạt cảnh này. Lễ là tảo mộ, thăm viếng, sửa sang quét tước phần mộ để tưởng nhớ người thân tổ tiên đã khuất. Hộ là đạp thanh: Lễ và hội trong tiết thanh minh là sự giao hoà độc đáo giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái đã qua và cái sắp tới. Chứng tỏ nhà thơ rất hiểu và trân trọng những giá trị truyền thống văn hoá dân tộc.
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,Bốn câu thơ sau là ngôn ngữ tự xự tả bức tranh của lễ hội. Một hệ thống danh từ, động từ, tích từ: Gợi lên không khí lễ hội thật rộn ràng. Các danh từ như: “yến anh”, “chị em”, “tài từ”, “giai nhân” gợi tả sự đông vui, nhiều người cùng đến hội, các động từ “sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả sự rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội, các tính từ “gần xa”, “nô nức” làm rõ hơn tâm trạng của người đi hội, đồng thời cách nói ẩn dụ nô nức, yến anh từng đoàn người nhộn nhịp đi chơi xuân tất bật, nhộn nhịp nhất là những nam thanh nữ tú, tài tử, giai nhân. Thông qua việc du xuân của họ, tác giả khắc hoạ một truyền thống văn hoá thật đẹp và sống động.
Ngựa xe như nước áo quần như nêm
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.
Tà tà bóng ngả về tây,Nắng nhẹ, khe nước nhỏ, một nhịp cầu nhỏ bắc ngang. Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, mặt trời từ từ ngả bóng về tây, bước chân người thơ thẩn, dòng nước uốn quanh. Đến đây không khí nhộn nhịp, dộn dàng của lễ hội không còn nữa tất cả đang nhạt dần. Những từ láy: Tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái, cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Hai chữ nao nao nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật, đó là cảm giác bâng khuâng, xao xuyến về một ngày du xuân đang còn và sự linh cảm về điềm sắp xảy ra đã xuất hiện.
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.