昔年今日到崑崙其一

甘棠廿四樹陰蘩,
山色濤聲徹曉昏。
嘗得天涯無限況,
昔年今日到崑崙。

 

Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn kỳ 1

Cam đường chấp tứ thụ âm phiền,
Sơn sắc đào thanh triệt hiểu hôn.
Thường đắc thiên nhai vô hạn huống,
Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn.

 

Dịch nghĩa

Hai mươi bốn cây bàng rủ bóng um tùm,
Suốt từ sáng đến tối, mắt nhìn màu núi, tai nghe tiếng sóng.
Được thưởng thức cảnh tượng vô hạn ở chốn chân trời,
Ngày này năm trước đến Côn Lôn.


Nhóm bạn tù Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế,... ra Côn Đảo ngày 15-8-1908. Ngày 15-8-1911, nhân kỷ niệm 3 năm ra đảo, các ông lấy câu Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn làm đề mục để làm thơ.


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Huỳnh Thúc Kháng

Rườm rà hăm bốn cụm bàng non
Chiều sớm màu son sóng biển dồn
Ngắm cảnh thiên nhai chừng chửa chán
Ngày này năm ngoái đến Côn Lôn

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Trương Việt Linh

Um tùm hai bốn cây bàng
Màu non tiếng sóng sớm hôm không rời
Ngắm trông vô hạn chân trời
Côn Lôn năm ngoái ngày này đến đây

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Bóng um hai bốn cây bàng,
Màu non tiếng sóng trước làn nước mây.
Chân trời thưởng cảnh chốn đây,
Côn Lôn năm trước ngày này đến đây.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Đồng Thành

Um tùm hai bốn cụm cây bàng,
Chiều sớm màu non tiếng sóng làn.
Vô hạn chân trời nơi thưởng cảnh,
Côn Lôn năm trước ngày này sang.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời