Chưa có đánh giá nào
Ngôn ngữ: Tiếng Séc
2 bài trả lời: 2 bản dịch
Từ khoá: chiến tranh (304)

Đăng bởi hongha83 vào 05/10/2016 18:23, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi hongha83 vào 13/09/2024 20:23

Mrví v Lidicích

Vlaštovka svou střechu nenalezla,
poletujíc tiká dojemně,
stromy však jak přelámaná žezla
trčí ještě dneska ze země.

A vy dole opřeni jste patou,
když už cesta došla nad propast.
Jdete tmou a s paží rozepjatou,
jako byste sili do svých brázd,

jenom skřivan se k vám dolů vrací,
je vám blíž než my a slyší spíš,
čemu rozumějí jenom ptáci.
V jeho písni uslyšíš

zpívat hlínu, která zalehla vám
ústa hněvem ještě sevřená,
zpívat kámen, který lehl k hlavám,
ticho, které padlo na jména,

zpívat úzkost, když vám brali děti,
zpívat pláč, jenž v koutcích se vám třás,
když se hrůzou chtělo zešíleti
a když na šílenství nezbyl čas,

zpívat hrůzu, byla v očích vryta,
když se ženy chytly veřejí,
jako tonoucí se stébla chytá,
nemaje už jinou naději,

zpívat chvíli úžasného klidu,
když už zbývá jenom jeden vzdech,
zpívat všechnu krásu toho lidu,
jemuž chodíme tu po hrobech.

Dnes tu zpívá skřivan jako dříve
věčně klidnou píseň roviny.
A i růže, růže zádumčivé
zašlapali tenkrát do hlíny.


Lidice là một địa điểm ở ngoại ô Praha. Nơi đây, ngày 10-6-1942 phát xít Đức đã thiêu huỷ và bắn chết 184 người đàn ông, 196 phụ nữ và 96 trẻ em dã bị đưa vào trại tập trung. Sau năm 1945, làng này đã được xây dựng lại cùng với một vườn hồng do nhiều nước trên thế giới gửi đến trồng.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Dương Tất Từ

Bầy chim én bay về không thấy tổ
cũng không tìm thấy cả những mái nhà đơn sơ
chúng thầm lặng lượn vòng quanh thương xót
những hàng cây gục ngã bên đường
như vương trượng nhà vua gãy gục

Còn các anh, những người nằm dưới mộ
các anh lê gót trên con đường vực thẳm
trong đêm tối các anh đi và vươn cao lồng ngực
như muốn lấy thêm nghị lực cho luống cày những mùa sau

Chim chiền chiện sẽ tìm đến các anh nơi âm phủ
chúng sẽ nghe thấu các anh hơn con người nhắn nhủ
cái loài chim hiểu thấu tiếng người
và biết đâu các anh sẽ nghe được lời ca của chúng

Chúng sẽ hót ngợi ca về mảnh đất các anh nằm
về nỗi căm thù chưa kịp thốt lên khi môi các anh khép lại
hót về tấm bia đá đặt trên bao ngôi mộ
thầm lặng khắc tên các anh

Chúng gót về nỗi đau khi quân thù mang con các anh đi
về tiếng khóc khiến các anh thắt lòng nơi góc xóm
khi đạn lên nòng chúng sắp sửa bắn các anh
sự điên rồ không cần thời gian suy ngẫm

Chim hót về nỗi kinh hoàng trên khoé mẳt
những người phụ nữ bị nhốt trong thùng xe khép chặt
những thân cỏ héo khô không còn biết đau nữa
không còn ánh sáng, không còn hy vọng

Chim hót về cái khoảnh khắc tĩnh lặng tuyệt vời
khi chỉ còn lại một tiếng thở dài thôi
chúng ngợi ca tất cả những gì đẹp đẽ của nhân dân
với lòng tôn kính, chúng tôi đi vòng quanh nấm mộ

Cho đến hôm nay những con chiền chiện vẫn hót
mãi mãi ngợi ca mảnh đất thanh bình
ngợi ca những bông hồng đang đắm mình trong suy tưởng
mà bọn chúng ngày nào đã dẫm đạp dưới giày đinh


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của (Không rõ)

The dead of Lidice

Homing swallow vainly seeks her loft
round and round with plaintive tweet she flies.
Yet the trees, like giant sceptres cleft,
tower silent into leaden skies.

You down there, whose heels the clay bed deepen,
where the path to depthless crater yields
striding through the darkness, arms flung open,
as though scatteringseeds into your fields —

Lark alone on your deep grave attending;
he is nearer you than is our ear
he hears all that passes understanding,
and in his note you may sometimes hear

song of clay, with stifling burden binding
lips about to utter words of flame
song of stone, your upright head surrounding
and the silence which enshrouds your name —

Song of anguish, as your children, weeping,
to the dark grey waiting trucks they led
when you saw the pit of madness gaping
and for madness time had long since fled —

Song of terror that no terror matches,
wild-eyed women gripping door and fence
as a drowning man a straw haulm clutches
as salvation’s one and only chance —

Song of silence, startling, and still deeper
when the last faint breath has died away
song of all the glory of this people
on whose nameless graves we step today.

Now the lark’s song, clear and tranquil, rises
up from the plain like any other day —
But the roses, melancholy roses
trodden underfoot, still dot the clay.

Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời