Trang trong tổng số 11 trang (109 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Ngẫu thành kỳ 4 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Ngồi dựa song nam, trăng ghé bên
Không dưng nghiêng ngả chén sành riêng.
Bụng già chua chát thơ không lực
Năm đói lao dao thóc có quyền
Biết phận mình rồi không gặp thánh
Bao giờ mây hết ngước trông thiên
Sách Trang đâu phải hoang đường cả
Thiên nhất “Tiêu dao” hãy mở xem.

Ảnh đại diện

Ngẫu thành kỳ 3 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Cớ sao trăng sáng ngó ao xanh,
Gió mát từ đâu đến lọt màn.
Đậu đốt đậu: tình người tráo trở,
Cờ ăn cờ: thế sự tuần hoàn.
Níu không tựa Hán làm chi thế?
Nâng chén cầm rùa, đã quyết tâm!
Lười nhác, lão này vô tích sự,
Bến đình tìm đá hãy buông cần!

Ảnh đại diện

U sầu kỳ 1 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Đeo đẳng u sầu, vất được chăng?
Sách vàng gượng mở hỏi đèn xanh.
Hy, Hiên, Nghiêu, Thuấn giờ đâu nhỉ?
Tấn, Sở, Tuỳ, Lương còn đó chăng?
Có thể dấn mình, xiêm hoá chó,
Vô tình chi cực, quạ như tăng.
Tư văn chửa mất, lo gì thiếu,
Chỉ sợ lâu ngày núi cũng tan!

Ảnh đại diện

Tứ tử Hoan hội thí trúng phó bảng (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Cha đỗ tam nguyên, con phó bảng,
Phải chăng tạo vật có thừa trừ.
Một nhà may mắn trước sau nối,
Mười việc làm sao tám chín như.
Vũ trụ: mạch văn trời chẳng dứt,
Tổ tổng: phúc đức đất còn lưu.
Phong vân này hội ta đang lão,
Mong ngóng ngày đêm: con gắng như...

Ảnh đại diện

Thứ Dương Khuê tiễn tặng nguyên vận (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Bất tài lỗi hẹn với người xưa,
Dặm khách phong trần giống ngựa ô.
Hẹn ngắm trăng non chiều đỉnh núi,
Vấn vương tình ấy ngó sen tơ.
Lòng nhàn xin gửi mươi hàng cúc,
Sông Vị, tìm về những giấc mơ.
Trở lại vườn xưa dương liễu rủ,
Sầu xuân giọt giọt đọng hồn ngơ.

Ảnh đại diện

Hữu cảm kỳ 2 (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Nghèo bệnh quanh năm, chịu được không?
May điều sở thích tôi như ông.
Gạo cho vào chỗ mong xôi sớm,
Người nghỉ bên song đợi rượu ngon.
Chưa gặp Hoàng Sinh vì hám lợi,
Tu thân Bão Thúc chớ tranh hơn.
Sáng nay mưa gió đường đi khó,
Đôi mắt đăm đăm dõi cuối sông!

Ảnh đại diện

Hung niên hỉ vũ (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Gặp thời chí lớn cũng đành an,
Hạn lụt sâu trùng năm lại năm.
Đói mãi con đòi ăn cháo nóng,
Nhịn suông gà bới giữa sân bằng.
Làm thuê làm mướn, con nhà khá,
Chỉ đọc chỉ ngâm sách mọt châm.
Mưa lớn ruộng vườn ai cũng lợi,
Cầu mong thóc lúa được muôn ngàn.

Ảnh đại diện

Quá Quảng Bình quan (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Nương mây, dựng đứng bức trường thành,
Liễu tựa tầng lầu ngó vịnh xanh.
Núi tự Đâu Máu, đầm ở giữa,
Nước về Nhật Lệ, thác xô ghềnh.
Rừng bằng bãi cát phơi cồn trắng,
Trời nổi khí mù lạnh biển xanh.
Hỏi khách trên đường danh lợi ấy,
Quảng Bình, ai đó chửa in chân?

Ảnh đại diện

Quá quán Giốc (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Chỉ thấy núi khe, dốc ngoặt mau
Khắp nơi mây gió trời thu cao.
Bãi sa đứt nối trăm dòng nước,
Thôn xóm ngổn ngang ngàn ngọn cau.
Làng rộn thanh la xua đuổi hổ,
Trẻ ngân sáo trúc gọi về trâu.
Đến nhà có việc không vừa ý,
Vẫn liễu xanh xe, khách bạc đầu!

Ảnh đại diện

Quá lưỡng trạng nguyên từ (Nguyễn Khuyến): Bản dịch của Trần Văn Nhĩ

Trăm sông qua núi đổ về đông,
Hai miếu cửa rừng ngát khói hương.
Khoa hoạn anh em cùng chiếm bảng,
Văn chương khí đất thật phi thường.
Người thưa cành biếc ran cò vạc,
Mưa quét bụi càng lặng núi sông.
Nghĩ đến người xưa càng cảm xúc,
Công danh lận đận nửa đời suông.

Trang trong tổng số 11 trang (109 bài trả lời)
[1] [2] [3] [4] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: