Bài thơ "Lửa đèn" và nhà thơ, người lính Phạm Tiến Duật (trích)
Năm 1964, ông lên đường nhập ngũ và chiến đấu trên các tuyến đường Trường Sơn.
Trong thời gian này, ông đã sáng tác rất nhiều bài thơ nổi tiếng như: Gửi em cô thanh niên xung phong, Trường Sơn đông Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Lửa đèn, Nhớ, Bếp lửa nhà mình…Chính những năm tháng chiến tranh ác liệt ở Trường Sơn đã tạo nên thơ Phạm Tiến Duật, và Phạm Tiến Duật cũng là người mang Trường Sơn vào thơ nhiều nhất. Ông đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1970 và sau đó được kết nạp vào Hội Nhà văn VN. Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Hội Nhà văn VN và từ đó đến nay sống tại Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn VN. Những năm cuối đời, không chỉ làm thơ, viết báo, ông còn làm MC của một chương trình dành cho người cao tuổi được phát trên sóng của Đài Truyền hình VN. Năm 2001, nhà thơ Phạm Tiến Duật được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
Năm 1969 nhiều trăn trở của đất nước sau tổng tấn công Mậu Thân 1968. Có một sự kiện văn học mà cả nước đều quan tâm - giải thưởng thơ báo "Văn nghệ" mà người đăng quang ngôi "trạng nguyên" là Phạm Tiến Duật - một nhà thơ lính, trẻ, với chùm thơ làm ở đường Trường Sơn huyền thoại.
Bằng một bút pháp rất lạ, rất lính, thơ Phạm Tiến Duật đã loang nhanh vào độc giả yêu thơ vô cùng nhiều của thời bấy giờ. Lúc đó, người ta mới tìm hiểu nhân thân của "trạng nguyên" và được biết anh đã từng là học sinh trường Hùng Vương (Phú Thọ) rồi là SV văn khoa ĐH Sư phạm Hà Nội cùng Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Hưng, Nghiêm Đa Văn... những nhà thơ đã có tiếng trước anh.
Thực ra, thời điểm đó, Phạm Tiến Duật đã làm thơ được 5 năm. Nhưng cái giọng điệu lạ lẫm của thơ anh chưa thể chinh phục được người đọc ngay từ đầu, bởi âm hưởng hào sảng của dòng thơ chính luận đang còn cuồn cuộn trên thi đàn thơ chống Mỹ từ ngót chục năm qua.
Ngoài những giọng thơ lĩnh xướng đàn anh như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên... là những giọng thơ sung sức của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly (tức Bùi Minh Quốc)... Một trường phái thơ bi tráng của Hải Phòng với những Thanh Tùng, Thi Hoàng, Hoàng Hưng, Đào Cảng... hoà điệu với những giọng thơ kiểu học sinh, trí thức Hà Nội như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Đỗ Quang Hưng... và giữa dàn hợp xướng thơ thời kỳ đầu chống Mỹ, vọt lên một giọng đơn ca đặc sắc của "thần đồng" Trần Đăng Khoa. Nhưng vẫn chưa tìm ra được ngoài những dòng thơ ca ngợi người lính, một thứ thơ thực của chính người lính đang dấn thân, dâng hiến, đang hy sinh trên hành trình "Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước".
LỬA ĐÈN
PHẠM TIẾN DUẬT
I. ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi có những ngọn đèn thắp trong kẽ lá
Quả cây chin đỏ hoe
Trái nhót như ngọn đèn tín hiệu
Trỏ lối sang mùa hè
Quả cà chua như cái đèn lồng nhỏ xíu
Thắp mùa đông ấm những đêm thâu
Quả ớt như ngọn lửa đèn dầu
Chạm đầu lưỡi chạm vào sức nóng…
Mạch đất ta dồi dào sức sống
Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương
Chúng nó đến từ bên kia biển
Rủ nhau bay như lũ ma trơi
Từ trên trời bảy trăm mét
Nhìn thấy lửa que diêm sáng mặt người
Một nghìn mét từ trên trời
Nhìn thấy ngọn đèn dầu nhỏ bé
Tám nghìn mét
Thấy ánh lửa đèn hàn chớp lóe
Mà có cần đâu khoảng cách thấp cao
Chúng lao xuống nơi nào
Lòe ánh lửa
Gió thổi tắt đèn, bom rơi máu ứa.
Trên đất nước đêm đêm
Sáng những ngọn đèn
Mang lửa từ nghìn năm về trước
Lấy từ thuở hoang sơ
Giữ qua đời này đời khác
Vùi trong tro trong chấu nhà ta.
Ôi ngọn lửa đèn
Có nửa cuộc đời ta trong ấy!
Giặc muốn cướp đi
Giặc muốn cướp lửa tim ta đấy.
Nơi tắt lửa là nơi tiếng hát
Đoàn thanh niên xung phong phá đá sửa đường
Dẫu hố bom kề bên còn bay mùi khét
Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương
Đêm tắt lửa trên đường
Khi nghe gần xa tiếng bước chân rậm rịch
Là tiếng những đoàn quân xung kích
Đi qua
Từ trong hốc mắt quầng đen bóng tối tràn ra
Từ dưới đáy hố bom sâu hun hút
Bóng tối dâng đầy tỏa ngợp bao la
Thành những màn đen che những bào thai chiến dịch
Bóng đêm ở Việt Nam
Là khoảng tối giữa hai màn kịch
Chứa bao điều thay đổi lớn lao
Bóng đêm che rồi không thấy gì đâu
Cứ đi, cứ đi nghe lắm âm thanh mới lạ.
II. THẮP ĐÈN
Anh cùng em sang bên kia cầu
Nơi có những miền quê yên ả
Nơi đêm ngày giặc điên cuồng bắn phá
Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên
Chiếc đèn chui vào ống nứa
Cho em thơ đi học ban đêm
Chiếc đèn chui vào lòng trái núi
Cho xưởng máy thay ca vồi vội
Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn
Cho những tốp trai làng đọc những lá thư thăm…
Ta thắp đèn lên trên đỉnh núi
Gọi quân thù đem bom đến giội
Cho đá lở đá lăn
Lấy đá kê cầu, lấy đá sửa đường tàu
Ta bật đèn pha ô tô trong chớp lòe ánh đạn
Rồi tắt đèn quay xe
Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đi…
Ngày mai, ngày mai hoàn toàn chiến thắng
Anh dắt tay em, trời chi chít sao giăng
"Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm"
Ta thắp đèn lồng, thắp cả đèn sao năm cánh
Ta dẫn nhau đến ngôi nhà đèn hoa lấp lánh
Nơi ấy là phòng cưới chúng mình
Ta sẽ làm cây đèn kéo quân thật đẹp
Mang hình những người những cảnh hôm nay
Cho những cuộc hành quân nào còn trong bóng tối
Sẽ hiện muôn đời trên mặt ngọn đèn xoay.
1967
Vô tình thu vắng lung linh nắng vàng