Bài viết của tác giả Ngô Minh đăng trên ANTG số cuối tháng 04/2005
Số phận bài thơ “Em nữ cứu thương người Pháp” của Hải BằngNhà thơ Hải Bằng đi vào cõi vĩnh hằng đã bảy năm rồi, nhưng đối với độc giả yêu thơ miền Trung, nhất là ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế vẫn không ai quên “người nô bộc tận tụy” của thơ ca, một thi sĩ lính đa cảm và bộc trực này. Nhiều bài thơ của ông vẫn được nhiều người thuộc lòng nhất là bài thơ Em nữ cứu thương người Pháp.
Hải Bằng tên thật là Nguyễn Phước Vĩnh Tôn, chắt nội của vua Hiệp Hòa. Ông là nhà thơ duy nhất ở Huế có 2 tấm thẻ hội viên trong hành trang của mình. Thẻ Hội viên Hội Văn nghệ Việt Nam năm cấp 1957 do nhà văn Nguyễn Tuân ký, và thẻ Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam cấp năm 1985 do nhà văn Nguyễn Đình Thi ký.
Năm mười bốn tuổi, Hải Bằng đã từ bỏ cuộc sống nhung lụa giàu sang của gia đình hoàng tộc để đi theo Vệ quốc đoàn, trở thành chiến sĩ Trung đoàn 101 nổi tiếng của Vệ quốc đoàn vùng Trị Thiên - Huế từ năm 1945. Năm 1948, ông ở trong Đoàn Văn nghệ Liên khu IV vào chi viện cho chiến trường Bình - Trị - Thiên. Thời kỳ nay, Hải Bằng lấy tên là Văn Tôn, làm thơ, rồi đọc cho bộ đội nghe. Những bài thơ của ông liên tục xuất hiện tại chiến khu Dương Hòa, Ba Lòng, Gio Linh, Cam Lộ từ đó. Trong đó có bài thơ nổi tiếng Em nữ cứu thương người Pháp.
Khi còn sống nhà thơ kể rằng, mùa hè năm 1952, ông theo bộ đội Trung đoàn 95 ra trận phục kích đoàn quân Pháp tiếp tế cho đồn Nam Đông vùng Cam Lộ, Quảng Trị, trên đường 73, 74. Trong trận đánh quân ta bắt được một số tù binh Pháp, trong đó có một nữ cứu thương Pháp còn rất trẻ. Bọn Pháp đã bắn canông vào trận địa ta, làm cho nữ cứu thương người Pháp bị tử trận. Người ta tìm thấy trong túi cô cứu thương Pháp có bức thư của người mẹ từ Pháp gửi qua, nhắn con gái hãy trở về với mẹ. Xúc động trước thân phận người con gái nước ngoài bị bọn thực dân ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam, nhà thơ trẻ Văn Tôn lúc đó mới 22 tuổi, thức suốt đêm, đốt đèn dầu lạc, làm bài thơ dài, như một nén nhang thắp cho người con gái xấu số:
Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ
Thấy xác em nằm giữa cỏ tranh
Anh đắp cho em mền trấn thủ
Còn đâu nhìn thấy mắt xanh xanh
Bên xác còn nguyên tờ giấy mỏng
Ngậm ngùi anh nhặt đọc dòng thư
Thư buồn mẹ nhắn con về nước
Anh biết nhà em cũng xác xơ...
Làm xong bài thơ, Hải Bằng đọc cho các chiến sĩ trong đơn vị mình nghe. Bài thơ tự sự, dân dã, ngôn ngữ cấu tứ không cầu kỳ, nhưng lại da diết nỗi niềm, nên lay động lòng người. Bài thơ lập tức được chép tay, được học thuộc và lan truyền nhanh chóng trong các đơn vị bộ đội và nhân dân trên chiến trường Trị - Thiên lúc đó và gây nên sự xúc động sâu sắc. Một số lính ngụy ở lôcốt Giăng-phạc-ngân cũng chép và thuộc bài thơ.
Đây là lần đầu tiên trong văn chương cách mạng Việt Nam có một tác phẩm viết về “kẻ thù”, nhưng không ở góc độ phản kháng, chống đối, mà ở sự “thương xót” cho số phận con người và lên án chiến tranh. Vì thế bài thơ có tầm nhìn quốc tế lớn bởi cách nhìn chiến tranh rất nhân văn:
Em chết, chiều nay chết ở đây
Mẹ đâu thấy bóng buổi sau này
Quê hương bên ấy chiều xanh khói
Sẽ thấy bà con nước mắt đầy...
Bài thơ cũng nói rất rõ là cô cứu thương người Pháp bị Vệ quốc đoàn bắt, nhưng rồi cô bị giết bởi đạn canông của chính bọn thực dân Pháp, nên sự căm hờn càng nhân lên, sức tố cáo chiến tranh càng nhân lên bởi chính bọn xâm lược cũng chẳng coi gì mạng sống của đồng đội mình:
Bắt em, súng anh ngừng không bắn
Nhưng súng quân thù lại giết em
Chúng bắn ca-nông vào giữa trận
Mắt xanh nhắm lại xác nằm im...
Sau trận đánh, các chiến sĩ Việt Minh đã đắp cho cô gái Pháp nấm mộ đàng hoàng nơi chiến khu:
Rằng các anh là Vệ quốc đoàn
Chiều nay thắng trận tiếng hò vang
Em được đắp dày ngôi mộ mới
Anh ngừng tay cuốc: giận... buồn...thương...
Đó là tình cảm quốc tế rộng lớn của người chiến sĩ Vệ quốc đoàn! Bài thơ đã được nhà văn Nguyễn Khắc Thứ (người nổi tiếng với ký sự Trận Thanh Hương dịch ra tiếng Pháp gửi cho những người lính hàng binh commăngđô đọc trong thời gian đó. Không khí bài thơ trầm lắng, buồn thương nhờ sự xoáy sâu, khai thác những hình ảnh của người con gái trẻ bị chết trên chiến trường Việt Nam với người mẹ, người yêu, em thơ... đang buồn đau ở làng quê nước Pháp xa xôi.
Bài thơ làm cho Văn Tôn nổi tiếng trong làng văn nghệ kháng chiến Liên khu IV lúc đó, đồng thời cũng gây nên rắc rối cho ông. Dù không được in ở sách báo nào, nhưng người ta cho rằng “quan điểm địch, ta trong bài thơ không rõ ràng”! Tác giả Văn Tôn bị kiểm thảo vì đã “thương xót kẻ thù”. Vì thế bài thơ hay nổi tiếng ấy đã không được đưa vào các tuyển tập thơ kháng chiến, nên các thế hệ trẻ sau này không được đọc. Nhưng rất nhiều cựu chiến binh và nhân dân thời chống Pháp ở chiến trường Bình - Trị - Thiên, đặc biệt là vùng Cam Lộ, Gio Linh đến nay vẫn thuộc bài thơ.
Sinh thời nhà thơ Hải Bằng thường nhắc lại một kỷ niệm, năm 1975 khi miền Nam giải phóng, ông trở lại vùng Cam Lộ thăm lại nơi chiến đấu xưa, thì gặp chị Nậy, một thiếu nữ trẻ xưa kia nay đã già và bị mù do bom đạn Mỹ. Nhà thơ cầm tay chị và khi nói mình tên là Hải Bằng, tức Văn Tôn, thì chị Nậy òa khóc, rồi sau đó đọc thuộc lòng bài thơ Em nữ cứu thương người Pháp!
Trong một đặc san kỷ niệm ngày thành lập ngày Cựu Chiến binh Việt Nam của Hội Cựu chiến binh Quảng Trị gần đây, từ trí nhớ của mình một cựu chiến binh đã chép lại bài thơ đó, nhờ vậy chúng ta mới được đọc trọn vẹn bài thơ này. Mới hay, khi thơ ca đã vào lòng người, thì không cần giấy trắng mực đen, nó vẫn sống mãi!
EM NỮ CỨU THƯƠNG NGƯỜI PHÁP
Chiều nay tiếng súng anh ngừng nổ
Thấy xác em nằm giữa cỏ tranh
Anh đắp cho em mền trấn thủ
Còn đâu nhìn thấy mắt xanh xanh
Bên xác còn nguyên tờ giấy mỏng
Ngậm ngùi anh nhặt đọc dòng thư
Thư buồn, mẹ nhắn con về nước
Anh biết nhà em cũng xác xơ
Chúng bắt em đi xa đất nước
Bỏ nhà, lìa mẹ, cách em thơ
Qua đây giày xéo quê hương bạn
Nhà cửa tan tành ngọn cỏ khô!
Qua đây em nhớ nhà không nhỉ?
Thao thức đêm dài mẹ nhớ con
Thôi chiều nay hết - em đi biệt
Tiếc nuối thương đời nữ cứu thương!
Em ở mấy mùa trên đất Việt
Những ngày hôm trước biết gì không?
Tin rằng độ ấy em không biết
Nếu biết giờ đây đỡ lạnh lùng...
Bắt em, súng anh ngừng không bắn
Nhưng súng quân thù lại giết em
Chúng bắn ca-nông vào giữa trận
Mắt xanh nhắm lại, xác nằm im...
Anh giận đời em đi lạc hướng
Tội em theo bước bọn thù chung
Băng bó vết thương cho lũ giặc
Bạn em còn sống biết hay không?
Em chết, chiều nay chết ở đây
Mẹ đâu thấy bóng buổi sau này
Quê hương bên ấy chiều xanh khói
Sẽ thấy bà con nước mắt đầy
Em chết, bàn tay vây máu đỏ
Tin về bên ấy lạnh lùng chưa!
Buổi mai tuyết phủ dồn trên mái
Có bóng người yêu lỡ hẹn hò
Mẹ bước vào sâu trong phòng lạnh
Bàn tay ôm lấy một vòng hoa
Em thơ ngơ ngác ngùi thương chị
Chim ở quanh vườn thôi hát ca...
Từ độ em đi cho đến nay
Pa-ri vùng dậy biết bao ngày
Biểu tình chống giặc bắt đi lính
Đỡ khổ làng anh máu nhuộm đầy
Rằng các anh là Vệ quốc đoàn
Chiều nay thắng trận tiếng hò vang
Em được đắp dày ngôi mộ mới
Anh ngừng tay cuốc: giận... buồn... thương...
Thôi em nằm đó anh đi trận
Giết kẻ thù chung cướp nước anh
Đem lại ngày mai hai dân tộc
Tình thương hứa hẹn một bình minh
Tượng Thờ dù đổ vẫn thiêng
Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ