Hôm nay đi chùa Hương Hoa cỏ mờ hơi sương Cùng thầy me em dậy Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao Em đeo dải yếm đào Quần lĩnh, áo the mới Tay cầm nón quai thao.
Me cười: "Thầy nó trông! Chân đi đôi dép cong, Con tôi xinh xinh quá! Bao giờ cô lấy chồng?"
- Em tuy mới mười lăm Mà đã lắm người thăm Nhờ mối mai đưa tiếng, Khen tươi như trăng rằm.
Bản dịch CHÙA HƯƠNG
Aujord’hui, nous allons visiter Chua Huong. Les herbes et fleurs étant enore enveloppées de brume, Je me lève déjà avec papa et maman Et me mets à peigner les cheveux devant le miroir.
Sur la tête, petit turban et cheveux tressés en queue de coq, Couvre-poitrine couleur rose, Pantalon de satin noir , robe de tulle neuve, Tenant en main le chapeau plat à mentonnière de soie…
Maman souriant dit à papa: “”Regarde, mon cher, Comme notre fille est jolie, Chaussée de sandales courves”. “- Quand donc vas-tu te marier, mademoiselle?”
Je n’ai que quinze ans, Mais tant de monde sont venus prendre contact Par l’intermédiare des entremetteuses. On me trouve fraîche comme la lune pleine.
Nguyễn Tư Giản (1823- 1890) tự là Tuân Thúc; người Từ Sơn, Bắc Ninh; nay là Đông Anh, Hà Nội. Đỗ Hoàng giáp năm 1884, trải 7 đời vua từ Thiệu Trị tới Đồng Khánh, làm tới Tổng đốc. Tác phẩm có: Thạch Nông toàn tập , Yên thiều bút lục... Năm 1868, Ông là Phó sứ sang Trung Hoa; được Tri phủ Hà Dương là Ngải Tuấn Mỹ tặng đôi câu đối:
“Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Giao kết mười năm tìm kiếm cổ. Cúi đầu một kiếp lạy hoa mai)
十載輪交求古剑/ 一生低首拜槑 Đôi câu đối này trước đây bị nhầm là của Cao Bá Quát (1809-1855).Tế: ranh giới, khoảng giữa; như thiên tế (chân trời), quốc tế
ĐEM QUA SÔNG GIANH
NGUYỄN TƯ GIẢN
Trăng non, còn thấp nước triểu
Gió hiu hiu thổi, nước đều lặng êm
Nhà chài đâu đó đỏ đèn
Nghe trong sương khói chèo thuyền tiếng ca.
Trăng non, triều chửa lên
Gió nhẹ, mặt sông êm
Đèn rạng nhà ai đó
Vọng nghe tiếng kéo thuyền.
PASSAGE DU FLEUVE LINH GIANG
NGUYEN TU GIAN
Nouvelle lune brille sur la marée basse
Souffle le vent léger, le fleuve est calme et sans trace
D’où s’allumine la lampe au logis du pêcheur?
Dans la brume s’entend la chanson du rameur.
ПЕРЕСЕКАТЬ РЕКУ ЛИНГ ЗЬЯНГ
НГУЕН ТЫ ЗЬЯН
Молодая луна, прилив пока не начнёт
Ветерoк дует, спокойные воды реки
Откуда светит лампа дома рыбака
В тумане слышны песни гребеца.
NGUYỄN CHÂN 25.04.2016
雨中飛燕
宗室說
何亊亭臺乎不帰
山邉風雨共霏霏.
綢繆一片丹心在
欲向千尋碧峒依.
VŨ TRUNG PHI YẾN
TÔN THẤT THUYẾT
Hà sự đình đài hồ bất quy
Sơn biên phong vũ cộng phi phi.
Trù mâu nhất phiến đan tâm tại
Dục hướng thiên tầm bích động y.
Giải nghĩa: ÉN BAY TRONG MƯA
Có sao không quay về chốn đình đài (cung điện)
(Mà ra) chốn biên cương rừng núi mưa gió tầm tã.
Ràng buộc bởi một tấm lòng son còn đó
Muốn hướng lên phía ngàn tầm dựa vào động biếc.
--
Tôn (Tông) Thất Thuyết (1839-1913) dòng hoàng tộc, chủ yếu phụ trách quân cơ; sau là Thượng thư, vào Cơ mật Viện, là 1 trong 3 Phụ chính đại thần. Tháng 5/1885 đánh Pháp thất bại, Ông đưa Vua Hàm Nghi chạy ra Sơn phòng Quảng Trị. Năm 1887, Ông sang Trung Quốc cầu viện rồi bị “kẹt” ở đó. Cha Ông bị đày Côn Đảo; mẹ, vợ, em trai, các con trai chết trong quân. Bố vợ là Tán tương Quân vụ Nguyễn Thiện Thuật, lãnh đạo Khởi nghĩa Bãi Sậy. Con rể Ông là Hoàng giáp Nguyễn Thượng Hiền, tham gia Đông Du. Thơ làm khi ở Sơn phòng.
Phi phi: tầm tã, lã chã, sầm sập…. Trù: ràng buộc. Mâu: đan xen. Trù mâu: ràng buộc, vấn vít. Tầm: tìm (đ.từ), đơn vị đo cổ.
ÉN BAY TRONG MƯA
TÔN THẤT THUYẾT
Cớ sao cung điện không về
Biên cương mưa gió dầm dể lại ra
Tấm son ràng buộc lòng ta
Ngàn tầm động biếc bỏ qua sao đành
Cớ sao cung điện bỏ, không về
Mưa gió biên cương lại hướng đi
Một tấm lòng son luôn trói buộc
Ngàn tầm động biếc khó quên quê!
LES MARTINETS S’ENVOLENT SOUS LA PLUIE
TON THAT THUYET
Pourquoi ne s’en retournent au palais royal
Mais se dirigent à la frontière pleine d’intempéries
BÀI DỊCH TIẾP CỦA PHAN HOÀNG MẠNH; (HAI ĐOẠN TRƯỚC CÓ SỬA MẤY CHỖ)
EM ĐI CHUA HƯƠNG JE SUIS ALLEE VISITER CHUA HUONG (tiếp) (suite)
Mẹ cười: "Thầy nó trông! Maman dit en souriant: “Tu vois notre fille? Chân đi đôi dép cong, Chaussée de sandales à bouts rehaussés,, Con tôi xinh xinh quá! Comme elle est jolie! Bao giờ cô lấy chồng?" - Quand donc iras-tu te marier, mademoiselle?”
Em tuy mới mười lăm Bien que je n’aie que quinze ans, Mà đã lắm người thăm Tant de monde sont venus prendre contact, Nhờ mối mai đưa tiếng, Par l’intermédiaire des entremetteuses, Khen tươi như trăng rằm. Me trouvant fraîche comme la lune de quinzaine. Nhưng em chưa lấy ai, Mais je ne vais pas bientôt me marier, Vì thầy bảo người mai Car papa a répondu à l’entremetteuse Rằng em còn bé lắm, Que je suis encore bien petite. (Ý đợi người tài trai). (Sans doute pour attendre quelqu’un de talentueux).
Em đi cùng với me. Je me mets en route avec maman, Me em ngồi cáng tre, Toutes deux assises dans une chaise à porteurs. Thầy theo sau cưỡi ngựa, Papa nous suit sur son cheval, Thắt lưng dài đỏ hoe. Le tronc entouré d’une ceinture écarlate.
Thầy me ra đi đò, Papa et maman entrent dans une barque Thuyền mấp mênh bên bờ. Qui flotte tout près de la rive. Em nhìn sông nước chảy Je contemple l’eau courante de la rivière Đưa cánh buồm lô nhô. Qui balance nombre de voiles.
Mơ xa lại nghĩ gần, Pensant vaguement aux choses futiles de la vie, Đời mấy kẻ tri âm? Je ne sais si la vie nous donne des confidents… Thuyền nan vừa lẹ bước, Un petit sampan s’approche, Em thấy một văn nhân. Soudain, j’aperçois un intellectuel..
Nhưng em chưa lấy ai Vì thầy bảo người mai Rằng em còn bé lắm Ý đợi người tài trai
Em đi cùng với mẹ Mẹ em ngồi cáng tre Thầy theo sau cưỡi ngựa Thắt lưng dài đỏ hoe
Thầy me ra đi đò Thuyền mấp mênh bên bờ Em nhìn dòng sông chảy Đưa cánh buồm lô nhô Mơ xa lại nghĩ gần Đời mấy kẻ tri âm?
Thuyền nan vừa lẹ bước, Em thấy một văn nhân… Người đâu thanh lạ thường! Tướng mạo trông phi thường Lưng cao dài, trán rộng. Hỏi ai nhìn không thương?
Chàng ngồi bên me em Me hỏi chuyện làm quen: “Thưa thầy đi chùa ạ? Thuyền đông giời ơi chen!”
Chàng thưa vâng thuyền đông, Rồi ngắm giời mênh mông.. Xa xa mờ núi biếc Phơn phớt áng mây hồng
Giòng sông nước đục lờ. Ngâm nga chàng đọc thơ Thầy khen hay, hay quá! Em nghe, ngồi ngẩn ngơ...
Mais je ne suis mariée avec nulle personne, Car papa a dit aux entremetteuses, Que je suis encore trop jeune; Dans son esprit vint l’idée D’attendre …un homme de talent.
J’accompagnai maman, Maman s’assit sur un palanquin en bambou. Papa à cheval la suivit après, Portant un long ceinturon écarlate.
Mes parents sortent et descendent dans une barque, La barque vogue, affleurant la rive. Je regarde l’eau courante de la rivière Et la voile qui ballotte dans l’eau. Je médite, rêvant auprès et au loin: “Y a-t’il en ce monde des confidents?!
Soudain, je vois descendre lestement dans la barque Un lettré, ayant une extraordinaire physionomie, Dos long et haut, front large, Qu’il est beau, ce jeune lettré distingué! En le voyant, on ne peut s’empêcher de le désirer!
Il s’assied auprès de ma mère, Maman s’entretient avec lui, faisant connaissance: “Bonjour, vous allez aussi à la pagode? La barque est nombreuse, ô ciel, on se bouscule!" Il répond avec respect: "Oui, madame, la barque est pleine". Puis il contemple l’ immense paysage: Des montagnes lointaines floues verdâtres, Un amas de nuage rosâtre,
L’eau de la rivière trouble et sombre. Il doucement déclame des vers. Papa vivement applaudit: C’est merveilleux!’ Assise, j’écoute…hébétée…
Ngày gửi: 23/05/2016 09:24 Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi hongvan28 vào 23/05/2016 09:55
THƠ DỊCH: PHAN HOÀNG MẠNH
CHÙA HƯƠNG Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938)
(Thiên ký sự của cô bé ngày xưa)
Hôm nay đi chùa Hương Hoa cỏ mờ hơi sương Cùng thầy me em dậy Em vấn đầu soi gương.
Khăn nhỏ, đuôi gà cao Em đeo dải yếm đào Quần lĩnh, áo the mới Tay cầm nón quai thao.
Me cười: "Thầy nó trông! Chân đi đôi dép cong, Con tôi xinh xinh quá! Bao giờ cô lấy chồng?"
- Em tuy mới mười lăm Mà đã lắm người thăm Nhờ mối mai đưa tiếng, Khen tươi như trăng rằm.
BẢN DỊCH:
Aujord’hui, nous allons visiter Chua Huong. Les herbes et fleurs étant enore enveloppées de brume, Je me lève déjà avec papa et maman Et me mets à peigner les cheveux devant le miroir.
Sur la tête, petit turban et cheveux tressés en queue de coq, Couvre-poitrine couleur rose, Pantalon de satin noir , robe de tulle neuve, Tenant en main le chapeau plat à mentonnière de soie…
Maman souriant dit à papa: “”Regarde, mon cher, Comme notre fille est jolie, Chaussée de sandales courves”. “- Quand donc vas-tu te marier, mademoiselle?”
Je n’ai que quinze ans, Mais tant de monde sont venus prendre contact Par l’intermédiare des entremetteuses. On me trouve fraîche comme la lune pleine.
Mẹ cười: "Thầy nó trông! Maman dit en souriant: “Tu vois notre fille? Chân đi đôi dép cong, Chaussée de sandales à bouts rehaussés,, Con tôi xinh xinh quá! Comme elle est jolie! Bao giờ cô lấy chồng?" - Quand donc iras-tu te marier, mademoiselle?”
Em tuy mới mười lăm Bien que je n’aie que quinze ans, Mà đã lắm người thăm Tant de monde sont venus prendre contact, Nhờ mối mai đưa tiếng, Par l’intermédiaire des entremetteuses, Khen tươi như trăng rằm. Me trouvant fraîche comme la lune de quinzaine. Nhưng em chưa lấy ai, Mais je ne vais pas bientôt me marier, Vì thầy bảo người mai Car papa a répondu à l’entremetteuse Rằng em còn bé lắm, Que je suis encore bien petite. (Ý đợi người tài trai). (Sans doute pour attendre quelqu’un de talentueux).
Em đi cùng với me. Je me mets en route avec maman, Me em ngồi cáng tre, Toutes deux assises dans une chaise à porteurs. Thầy theo sau cưỡi ngựa, Papa nous suit sur son cheval, Thắt lưng dài đỏ hoe. Le tronc entouré d’une ceinture écarlate.
Thầy me ra đi đò, Papa et maman entrent dans une barque Thuyền mấp mênh bên bờ. Qui flotte tout près de la rive. Em nhìn sông nước chảy Je contemple l’eau courante de la rivière Đưa cánh buồm lô nhô. Qui balance nombre de voiles.
Mơ xa lại nghĩ gần, Pensant vaguement aux choses futiles de la vie, Đời mấy kẻ tri âm? Je ne sais si la vie nous donne des confidents… Thuyền nan vừa lẹ bước, Un petit sampan s’approche, Em thấy một văn nhân. Soudain, j’aperçois un intellectuel..
Người đâu thanh lạ thường! Que de finesse dans cet homme! Tướng mạo trông phi thường. Une physionomie hors de l’ordinaire… Lưng cao dài, trán rộng. Un dos long et droit, un front large… Hỏi ai nhìn không thương? Qui pourrait s’empêcher de l’admirer!
Chàng ngồi bên me em, Il prend place à côté de ma mére. Me hỏi chuyện làm quen: Maman avec lui lie conversation: "Thưa thầy đi chùa ạ? “Vous venez rendre hommage à Bouddha, Thuyền đông, giời ôi chen!" monsieur? Oh que de monde! notre barque est bien chargée! Chàng thưa: "Vâng, thuyền đông!" Il répond: “Oui madame, notre barque est Rồi ngắm giời mênh mông, vraiment bondée” Xa xa mờ núi biếc, Et se met à contempler le vaste ciel. Phơn phớt áng mây hồng. Au loin, s’affacent les montagnes bleues Dans des flocons de nuage rose.
Dòng sông nước đục lờ. L’eau de la rivière, assez trouble, s’écouie. Ngâm nga chàng đọc thơ. Il se met à réciter des vers. Thầy khen: "Hay! Hay quá!" Papa remarque: "C’est beau, c’est bien beau!" Em nghe rồi ngẩn ngơ. J’écoute et en suis restée toute étourdie.
Sao không quay lại lâu đài? Đây nơi biên ải, tả tơi gió ngàn Lòng son đã nhận buộc ràng? Vươn lên cao, hướng nghìn tầm động xanh.
Traduit en français:
L' HIRONDELLE S' ENVOLE DANS LA PLUIE.
Pourquoi ne retournes- tu pas vers l' ancien palais Et reste ici dans la frontière pleine de pluie et bourrasque? Etant relié par sa grande obligation De ces grottes vertes, on aspire vers mille niveaux.
Dịch bài thơ: LINH GIANG DẠ ĐỘ Nguyễn Tư Giản
Dịch ra thơ Việt:
ĐÊM QUA SÔNG GIANH.
Nước triều còn nhỏ, trăng nhô Phẳng im mặt nước, gió đưa nhẹ nhàng Đèn chài lấp lánh không gian, Bài ca sông nước mênh mang một vùng.
Traduit en français:
TRAVERSER LA NUIT LE FLEUVE GIANH.
La marée est encore basse, la lune commence à se lever. Le zéphir souffle sur la surface paisible de l'eau. D’ou scintillent les feux des barques de pêche ? Dans le brouillard, s' envole une barcarolle.
Tân nguyệt, triều do tiểu, Vi phong, thuỷ tự bình. Ngư đăng bất tri xứ, Yên tế trạo ca thanh.
Dịch nghĩa ĐÊM QUA SÔNG GIANH
Trăng mới hiện, nước triều còn nhỏ, Gió nhẹ, nước phẩng in. Đèn nhà ch ài không rõ ở nơi nào, Trong vùng sương khói, có tiếng hát chèo đò.
Dịch sang tiếng Việt ĐÊM QUA SÔNG GIANH
I- Trăng non, triều còn nhỏ, Gió nhẹ, nước lặng tờ. Đèn chài nơi nào đó, Tiếng hát vọng đêm mờ. II- Trăng non, triều chửa lên cao, Gió mơn man nhẹ, nước xao lặng tờ. Đèn chài thấp thoáng xa xa, Trong sương vọng tiếng ai ca chèo đò..
Dịch sang tiếng Pháp
TRAVERSANT LA NUIT LE FLEUVE GIANH
La lune commence à se lever, La marée se met à monter. La brise languit Sur l’onde endormie. Quelque part sur le lieu, Luit un feu de pêcheur. Dans la brume, s’envole Une douce barcarolle.
PHAN HOANG MANH
V Ũ TRUNG PHI YẾN Tôn Thất Thuyết (1835 – 1913)
Hà sự đình đài hồ bất quy S ơn biên phong vũ cọng phi phi? Trù mâu nhất phiến đan tâm tại, Dục hướng thiên tầm bích động y.
Dịch nghĩa
ÉN BAY TRONG MƯA
Cớ gì không quay về nơi điện đài Mà ở chốn biên cương rừng núi gió mưa tơi tả? Ràng buộc bởi một tấm lòng son còn đó Muốn hướng lên phía nghìn tàm dựa vào động biếc.
Dịch sang tiếng Việt
ÉN BAY TRONG MƯA
I- Sao không về lại nơi lầu gác Mà ở biên cương gió tả tơi? Ràng buộc tấm lòng son sắt đó Động xanh nghìn độ hướng cơ trời.
II- Sao không về chốn lầu xưa, Nơi đây biên ải gió mưa tơi bời? Lòng son ràng buộc cơ trời Động xanh tâm hướng về nơi nghìn tầm.
Dịch sang tiếng Pháp
L’HIRONDELLE S’ENVOLE DANS LA PLUIE
Pourquoi ne retournes-tu pas vers les anciens châteaux Et restes ici dans les vents et bourrasques de la frontière? Etant lié par son obligation fidèle et fière, De ces cavernes vertes, on aspire aux mille niveaux d’en haut.
Tổ quốc lục trầm, nhân hữu trách Phong trần bôn tẩu, ngã hà bi. Thệ tâm thiên địa thù nan cộng Cử mục sơn hà, chí bất di.
Dịch ra thơ Việt:
NÓI CHÍ CỦA MÌNH
Tổ quốc lâm nguy, cần trách nhiệm Trên đường gió bụi, há buồn chi. Thề không chung sống cùng quân giặc Ý chí chẳng sờn - Lúc nước suy!
En français:
Volonté
Devant le malheur du pays, tout le monde est responsable Sur les chemins révolutionnaires périlleux, jamais on a eu de désespoir. Devant le Ciel, on n' a juré de ne jamais coexister avec l' ennemi. Devant les événements de la patrie, rien ne peut ébranler sa foi.