和蘭池題烈婦廟

墜樓人去遺芳在,
皎月盈盈見妾心。
已折舞鸞成隻影,
不容夢蝶繞孤衾。
身輕一死霜前葉,
誓訂三生水上禽。
天有老時名不朽,
釵裙羞殺幾冠簪。

 

Hoạ Lan Trì đề liệt phụ miếu

Truỵ lâu nhân khứ di phương tại,
Kiểu nguyệt doanh doanh kiến thiếp tâm.
Dĩ chiết vũ loan thành chích ảnh,
Bất dung mộng điệp nhiễu cô khâm.
Thân khinh nhất tử sương tiền diệp,
Thệ đính tam sinh thuỷ thượng cầm.
Thiên hữu lão thời danh bất hủ,
Thoa quần tu sát kỷ quan trâm.

 

Dịch nghĩa

Nhảy lầu, người mất rồi để lại tiếng thơm,
Trăng sáng ngời ngời thấy rõ lòng trinh kiên của thiếp.
Chim loan bị chia lìa thành bóng lẻ,
Không cho mộng mị quấy rối mảnh chăn đơn côi.
Thân mình coi cái chết nhẹ như chiếc lá trước mùa sương,
Lời thề đinh ninh ba kiếp sau sẽ làm chim (liền cánh) trên mặt nước.
Trời cũng có lúc già, nhưng danh tiếng không bao giờ hủ nát,
Bạn quần thoa làm thẹn chết biết bao kẻ mũ áo.


Lan Trì là tên hiệu của Vũ Trinh (1752-1827), tự Duy Chu, hiệu Lai Sơn, Nguyên Hanh, người làng Xuân Lan, huyện Lang Tài, trấn Kinh Bắc (nay thuộc Bắc Ninh), vợ là con gái Nguyễn Nghiễm, đỗ hương cống năm 17 tuổi, từng làm việc dưới triều Chiêu Thống trong cả hai thời kỳ trước và sau Tôn Sĩ Nghị vào Thăng Long, đến chức Tham tri chính sự. Sau khi Tây Sơn đại phá quân Thanh, Lê Chiêu Thống chạy sang Bắc quốc, Vũ Trinh ẩn lánh ở vùng Hồ Sơn, dạy học và viết truyện. Gia Long lên ngôi, ông ra làm việc với nhà Nguyễn, đến chức Thị trung học sĩ, được cử đi sứ nhà Thanh năm 1809. Sau vì vụ án cha con Nguyễn Văn Thành, ông bị đày vào Quảng Nam 12 năm, khi được ân xá, về quê được vài ngày thì qua đời. Ông cũng là một tác giả tên tuổi của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII. Tác phẩm hiện còn: Lan Trì kiến văn lục, Hoàng Việt luật lệ soạn chung với Trần Hựu, Nguyễn Văn Thành đổng lý. Bài thơ này có thể viết về vợ Lê Cảnh Hoàn, một tiểu tướng của Lê Trịnh chết trong trận thuỷ chiến chống quân Tây Sơn ở bến Thuý Ái.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]