Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Phan Huy Thực » Nhân ảnh nhân nguyệt vấn đáp
Đăng bởi Vanachi vào 04/08/2007 08:15, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 01/10/2024 00:01
Bài thơ có 4 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:
1 Bản quốc ngữ in trong Việt Nam thi văn hợp tuyển (2001)
2 Bản Nôm Quan Văn đường khắc in (1910), Hoàng Thị Ngọ phiên âm
3 Bản Nôm trong Quốc âm ca dao tập, Hoàng Thị Ngọ phiên âm
4 Bản Nôm J. Viết in (1917), Châu Hải Đường phiên âm
1. Tiết thu dạ, thiên quang vân tĩnh,
Chốn lữ đình, giấcthứcxực tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng vẳng bốntứ bề,
Gương Nga vằng vặc soi hègiãi kềlại kề quế lan.
5. Thấy trăng, thêmthoắt động lòng vàng,
Ngâm câu vấn Nguyệt mà thanđọ ngang mấy lờivới trời.
Hỏi chịdì Nguyệt mấy lời sau trước:
“Duyên cớ sao mà lạiđược thảnh thơi?”
Nguyệt rằng: “Vật đổi sao dời,
10. ThânGương này trời để cho người soi chung.
Làm cho mỏi mệtmắt anh hùng,
Ngàn thu sương tuyết, một lòng thanh quang”.
Hỏi chịdì Nguyệt: “Có đường lên tới?
Chốn thiềm cung phỏng độ bao xahỏi mấy mươi xa?”
15. Nguyệt rằng: “Ta lạimới biết ta,
Có cây đan quế ấy là chị em.
Anh hùng thửbước tới màđó xem:
Kìa gương ngọc thỏ, nọ rèm thuỷ tinh”.
Hỏi chịdì Nguyệt: “Có tình chăng tá?
20. ChứChừ xuân thuniên hoa phỏng đã nhườngdường bao?”
Nguyệt rằng: “Yếu liễu tơLiễu yếu tơChút phận thơ đào,
Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
MảnhTấm gương vằng vặc chẳng mòn,
Bao nhiêu tinh đẩu là con cái nhà”.
25. Hỏi chịdì Nguyệt: “Hằng Nga mấy tuổi?
Cứ năm nămngày rằm đến tối lạithì ra?”
Nguyệt rằng: “Ta lạimới biết ta,
Minh minhMênh mênh trường dạ, ai màlà biết ai.
Vậy nên mở mặtmắt soi đời,
30. Biết nơi nham hiểm, biết ngườiloài tà gian”.
Nghe Nguyệt nói, lòng càng yêu Nguyệt,
Biết lòng ta có NguyệtNguyệt có haycho chăng?
MuốnThử lên cho tớiđến cung trăng,
Kết duyên cho được chị Hằng mới tha.
35. Một trăng với lại mộtmột mình ta,
Biết nhau chỉ lúccó canh ba điểm thùngtùng!
Nguyệt thong thảThong thả Nguyệt ướm lòng lại hỏi:
“CõiLối trần gian là cõilối làm sao?”
Ta rằng: “Thế cuộcCuộc đời xem tựa chiêm bao,
40. Công hầu, khanh tướng xôn xao trong vònglòng.
Tranh nhau chỉ vịvì chút hơi đồng,
GiếtCướpKém nhau vì miếngchút đỉnh chung của trời”.
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử,
Buổi vân lôi, hai chữ kinh luân.
45. Ta rằng: “Có đấngĐã có thánh thần,
Ra tay dẹpbát loạn, đem côngnên thânđem thân trị bình.
Còn phường trụcchực lợi tham danh,
Chẳng qua như chuyện minh linh, du phùminh, linh, âu, phù”.
Nguyệt lại hỏi: “Rừng nhoVăn đua mấy kẻ,
50. Rõ ra tay bẻ quế Tràng An?”
Ta rằng: “Cá bểnước, chim ngàn,
Đời nào chẳng cólà chẳng phượng hoàng, kình nghê”.
Ta hỏi Nguyệt ngẩn ngơ ngơ ngẩn,
Nguyệt hỏi ta thơ thẩn thẩn thơ.
55. ChồiDường hoa trước gió phất phơ,
Hiu hiu gióGió hiu hiu thổi, hương đưa ngạt ngào.
Canh càng thâmdiễn, Nguyệt càng cao,
Nguyệt ta, ta Nguyệt biết bao nhiêu tình!
Mấy câu ngâm chốntrước lữ đình,
60. Có ai biết Nguyệt biết mình chohay chăng?
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Đông Hải Cù Sinh ngày 30/12/2009 23:54
Có 3 người thích
Tôi may mắn có thấy một bản in (photo lại) bản Nhân Nguyệt Vấn Đáp có chữ Nôm và dịch ra tiếng Pháp, là bản in J.Viết, Sàigòn, 1917 (theo lời người có bản này). Đọc bản chữ Nôm thấy có một số chữ khác với bản của quý Trang, nên xin được đưa lên thêm.
Những chữ khác với bản của Thi viện, tôi có ghi thêm chữ Nôm theo như bản gốc vào ngay sau chữ đó (Một số chữ thuần Nôm do không có font twowng thích tôi ghi theo cách "+" các chữ Hán), để mọi người xem xét góp ý cách đọc cho chính xác.
Bản này như sau:
Tiết thu dạ thiên quang vân tịnh;
Chốn lữ đình xực 職 tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng vẳng bốn bề;
Gương nga vằng vặc lại吏 kề棋 quế lan.
Thấy trăng thoắt 脫 động lòng vàng;
Ngâm câu vấn nguyệt đọ 度 ngang 昂với 買trời(天+上).
Hỏi chị Nguyệt mấy lời sau trước;
“Duyên cớ sao mà được 特thảnh thơi.”
Nguyệt rằng: “Vật đổi sao dời;
Thân này trời để cho người soi chung.
Làm cho mỏi mệt anh hùng;
Ngàn thu sương tuyết một lòng thanh quang.”
Hỏi chị Nguyệt: “Có đàng lên tới?
Chốn thiềm cung phỏng độ bao xa?
Nguyệt rằng ta lại biết ta,
Có cây đan quế ấy là chị em.
Anh hùng thử tới mà xem,
Kìa gương ngọc thỏ, lọ rèm thuỷ tinh.”
Hỏi chị Nguyệt: “Có tình chăng tá?
Chừ 渚xuân thu phỏng đã dường bao?
Nguyệt rằng: “Chút (出+小) phận 分 thơ 疎 đào;
Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
Mảnh gương vằng vặc chẳng mòn.
Bao nhiêu tinh đẩu là con cái nhà.”
Hỏi chị Nguyệt: “Hằng Nga mấy tuổi;
Cứ ngày (日+1/2得) rằm (五+林) đến tối thì ra.
Nguyệt rằng: “Ta lại biết ta;
Mênh mênh trường dạ ai mà biết ai.
Vậy nên mở mặt soi đời;
Biết nơi nham hiểm, biết loài 類tà gian.
Nghe nguyệt nói lòng càng yêu nguyệt;
Biết lòng ta có nguyệt cho 朱chăng?
Muốn lên cho tới cung trăng,
Kết duyên cho được chị Hằng mới tha.
Một trăng với một 沒 mình 命ta;
Biết nhau chỉ có 固canh ba điểm tùng.
Nguyệt thong thả ướm lòng lại hỏi:
“Cõi trần gian là cõi làm sao?”
“Cuộc局đời(世+代)xem 瞻 tựa 似 chiêm bao;
Công hầu khanh tướng xôn xao trong vòng.
Tranh nhau vì 為 chút(出+小)hơi đồng;
Giết nhau vì miếng đỉnh chung của trời.”
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử;
Buổi vân lôi hai chữ “kinh luân”
Ta rằng: “Có đấng thánh thần;
Ra tay dẹp loạn, đem thân 身trị bình;
Còn phường chực 直lợi tham danh;
Chẳng qua như chuyện minh linh du phù.
Nguyệt lại hỏi rừng Nho mấy kẻ;
Rõ ra tay bẻ quế Tràng An.”
Ta rằng: “Cá bể chim ngàn;
Đời nào chẳng có phượng hoàng, kình nghê.
Ta hỏi nguyệt ngẩn ngơ ngơ ngẩn;
Nguyệt hỏi ta thơ thẩn thẩn thơ.
Dường 樣 hoa trước gió phất phơ;
Gió hiu hiu thổi hương đưa ngạt ngào.
Canh càng thâm nguyệt càng cao;
Nguyệt ta ta nguyệt biết bao nhiêu tình;
Mấy câu ngâm chốn lữ đình;
Có ai biết nguyệt biết mình cho chăng?
(Hết)