Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Phan Huy Thực » Nhân ảnh nhân nguyệt vấn đáp
Đăng bởi Vanachi vào 04/08/2007 08:15, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 23/02/2025 12:42
Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:
1 Bản quốc ngữ in trong Việt Nam thi văn hợp tuyển (2001)
2 Bản Nôm Quan Văn đường khắc in (1910), Hoàng Thị Ngọ phiên âm
3 Bản Nôm trong Quốc âm ca dao tập, Hoàng Thị Ngọ phiên âm
4 Bản Nôm trong Việt tuý tham khảo, Nguyễn Văn Tố phiên âm
5 Bản Nôm J. Viết in (1917), Châu Hải Đường phiên âm
1. Tiết thu dạ, thiên quang vân tĩnh ,
Chốn lữ đình, giấc tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng vẳng bốn bề,
Gương Nga vằng vặc soi hè quế lan.
5. Thấy trăng, thêm động lòng vàng,
Ngâm câu vấn Nguyệt mà than mấy lời .
Hỏi chị Nguyệt mấy lời sau trước:
“Duyên cớ sao mà lại thảnh thơi?”
Nguyệt rằng: “Vật đổi sao dời,
10. Thân này trời để cho người soi chung.
Làm cho mỏi mệt anh hùng,
Ngàn thu sương tuyết, một lòng thanh quang”.
Hỏi chị Nguyệt: “Có đường lên tới?
Chốn thiềm cung phỏng độ bao xa ?”
15. Nguyệt rằng: “Ta lại biết ta,
Có cây đan quế, ấy là chị em.
Anh hùng thử tới mà xem:
Kìa gương ngọc thỏ, nọ rèm thuỷ tinh”.
Hỏi chị Nguyệt: “Có tình chăng tá?
20. Chứ xuân thu phỏng đã nhường bao?”
Nguyệt rằng: “Yếu liễu tơ đào,
Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
Mảnh gương vằng vặc chẳng mòn,
Bao nhiêu tinh đẩu là con cái nhà”.
25. Hỏi chị Nguyệt: “Hằng Nga mấy tuổi?
Cứ năm năm đến tối lại ra?”
Nguyệt rằng: “Ta lại biết ta,
Minh minh trường dạ, ai mà biết ai.
Vậy nên mở mặt soi đời ,
30. Biết nơi nham hiểm, biết người tà gian”.
Nghe Nguyệt nói, lòng càng yêu Nguyệt,
Biết lòng ta có Nguyệt hay chăng?
Muốn lên cho tới cung trăng,
Kết duyên cho được chị Hằng mới tha.
35. Một trăng với lại một ta,
Biết nhau chỉ lúc canh ba điểm thùng !
Nguyệt thong thả ướm lòng lại hỏi:
“Cõi trần gian là cõi làm sao?”
Ta rằng: “Thế cuộc chiêm bao,
40. Công hầu, khanh tướng xôn xao trong vòng .
Tranh nhau chỉ vị hơi đồng,
Giết nhau vì miếng đỉnh chung của trời”.
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử,
Buổi vân lôi, hai chữ kinh luân.
45. Ta rằng: “Có đấng thánh thần,
Ra tay dẹp loạn, đem công trị bình.
Còn phường trục lợi tham danh,
Chẳng qua như chuyện minh linh, du phù ”.
Nguyệt lại hỏi: “Rừng nho mấy kẻ,
50. Rõ ra tay bẻ quế Tràng An?”
Ta rằng: “Cá bể , chim ngàn,
Đời nào chẳng có phượng hoàng, kình nghê”.
Ta hỏi Nguyệt ngẩn ngơ ngơ ngẩn,
Nguyệt hỏi ta thơ thẩn thẩn thơ.
55. Chồi hoa trước gió phất phơ,
Hiu hiu gió thổi, hương đưa ngạt ngào.
Canh càng thâm, Nguyệt càng cao,
Nguyệt ta, ta Nguyệt biết bao nhiêu tình!
Mấy câu ngâm chốn lữ đình,
60. Có ai biết Nguyệt biết mình cho chăng?
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Đông Hải Cù Sinh ngày 30/12/2009 23:54
Có 3 người thích
Tôi may mắn có thấy một bản in (photo lại) bản Nhân Nguyệt Vấn Đáp có chữ Nôm và dịch ra tiếng Pháp, là bản in J.Viết, Sàigòn, 1917 (theo lời người có bản này). Đọc bản chữ Nôm thấy có một số chữ khác với bản của quý Trang, nên xin được đưa lên thêm.
Những chữ khác với bản của Thi viện, tôi có ghi thêm chữ Nôm theo như bản gốc vào ngay sau chữ đó (Một số chữ thuần Nôm do không có font twowng thích tôi ghi theo cách "+" các chữ Hán), để mọi người xem xét góp ý cách đọc cho chính xác.
Bản này như sau:
Tiết thu dạ thiên quang vân tịnh;
Chốn lữ đình xực 職 tỉnh canh khuya.
Tai nghe văng vẳng bốn bề;
Gương nga vằng vặc lại吏 kề棋 quế lan.
Thấy trăng thoắt 脫 động lòng vàng;
Ngâm câu vấn nguyệt đọ 度 ngang 昂với 買trời(天+上).
Hỏi chị Nguyệt mấy lời sau trước;
“Duyên cớ sao mà được 特thảnh thơi.”
Nguyệt rằng: “Vật đổi sao dời;
Thân này trời để cho người soi chung.
Làm cho mỏi mệt anh hùng;
Ngàn thu sương tuyết một lòng thanh quang.”
Hỏi chị Nguyệt: “Có đàng lên tới?
Chốn thiềm cung phỏng độ bao xa?
Nguyệt rằng ta lại biết ta,
Có cây đan quế ấy là chị em.
Anh hùng thử tới mà xem,
Kìa gương ngọc thỏ, lọ rèm thuỷ tinh.”
Hỏi chị Nguyệt: “Có tình chăng tá?
Chừ 渚xuân thu phỏng đã dường bao?
Nguyệt rằng: “Chút (出+小) phận 分 thơ 疎 đào;
Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.
Mảnh gương vằng vặc chẳng mòn.
Bao nhiêu tinh đẩu là con cái nhà.”
Hỏi chị Nguyệt: “Hằng Nga mấy tuổi;
Cứ ngày (日+1/2得) rằm (五+林) đến tối thì ra.
Nguyệt rằng: “Ta lại biết ta;
Mênh mênh trường dạ ai mà biết ai.
Vậy nên mở mặt soi đời;
Biết nơi nham hiểm, biết loài 類tà gian.
Nghe nguyệt nói lòng càng yêu nguyệt;
Biết lòng ta có nguyệt cho 朱chăng?
Muốn lên cho tới cung trăng,
Kết duyên cho được chị Hằng mới tha.
Một trăng với một 沒 mình 命ta;
Biết nhau chỉ có 固canh ba điểm tùng.
Nguyệt thong thả ướm lòng lại hỏi:
“Cõi trần gian là cõi làm sao?”
“Cuộc局đời(世+代)xem 瞻 tựa 似 chiêm bao;
Công hầu khanh tướng xôn xao trong vòng.
Tranh nhau vì 為 chút(出+小)hơi đồng;
Giết nhau vì miếng đỉnh chung của trời.”
Nguyệt lại hỏi đến người quân tử;
Buổi vân lôi hai chữ “kinh luân”
Ta rằng: “Có đấng thánh thần;
Ra tay dẹp loạn, đem thân 身trị bình;
Còn phường chực 直lợi tham danh;
Chẳng qua như chuyện minh linh du phù.
Nguyệt lại hỏi rừng Nho mấy kẻ;
Rõ ra tay bẻ quế Tràng An.”
Ta rằng: “Cá bể chim ngàn;
Đời nào chẳng có phượng hoàng, kình nghê.
Ta hỏi nguyệt ngẩn ngơ ngơ ngẩn;
Nguyệt hỏi ta thơ thẩn thẩn thơ.
Dường 樣 hoa trước gió phất phơ;
Gió hiu hiu thổi hương đưa ngạt ngào.
Canh càng thâm nguyệt càng cao;
Nguyệt ta ta nguyệt biết bao nhiêu tình;
Mấy câu ngâm chốn lữ đình;
Có ai biết nguyệt biết mình cho chăng?
(Hết)