次韻寄示校理舍弟其一

千里關河策馬行,
飽經春色又秋聲。
天邊蓬鬢誰知己,
隴上梅枝數送情。
省閣無才裨政軸,
門閭有夢到征程。
歸鞭預訂歡杯日,
露後霜前節序更。

 

Thứ vận ký thị hiệu lý xá đệ kỳ 1

Thiên lý quan hà sách mã hành,
Bão kinh xuân sắc hựu thu thanh.
Thiên biên bồng mấn thuỳ tri kỷ,
Lũng thượng mai chi sác tống tình.
Sảnh các vô tài tỳ chính trục,
Môn lư hữu mộng đáo chinh trình.
Quy tiên dự đính hoan bôi nhật,
Lộ hậu sương tiền tiết tự canh.

 

Dịch nghĩa

Quan hà ngàn dặm, quất ngựa ra đi,
Từng nếm đủ màu xuân và tiếng thu.
Tóc rối nơi chân trời, biết ai người tri kỷ,
Cành mai Lũng Đầu, chứng kiến bao lần tiễn đưa.
Nghĩ mình vô tài, không giúp ích gì trong sảnh các,
Giấc mộng quê nhà vẫn theo bước chân đường trường.
Dự tính ngày quay về cùng nhau vui nâng chén,
Sẽ vào khoảng sau mùa móc trước mùa sương.


Hiệu lý là ông là con thứ tư cụ Phan Huy Cận, huý là Sảng, tên chữ là Thành Phủ, tên hiệu là Lễ Trai, lúc nhỏ còn tên là Trạc, sinh năm Giáp Thân (1764), thân mẫu là bà á thất Nguyễn Thị Nhã, đỗ Hương cống thịnh khoa Kỷ Hợi (1779), thi hội nhiều lần trúng tam trường. Lúc đầu làm chức Tự thừa, thời Tây Sơn được bổ chức Hiệu lý Viện Hàn lâm, tước Phái Lộc bá; mùa thu Mậu Ngọ (1798) làm chức Hữu quản lý huyện Thạch Thất; sau đổi tên là Giám, tự là Thúc Minh, rồi về Cổ Nhuế dạy học, lấy hiệu là Phục Am công. Tác phẩm có Tuân đính liệt huyện đăng khoa lục, Tăng bổ sự tích. Ông mất tháng giêng năm Tân Mùi (1811), 48 tuổi.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]