15.00
Thể thơ: Lục bát
Thời kỳ: Nguyễn
1 người thích

Đăng bởi Vanachi vào 29/06/2005 11:18, đã sửa 7 lần, lần cuối bởi Admin vào 30/10/2024 12:10

Bài thơ có 5 dị bản, hãy chọn bản muốn xem:

1 Bản quốc ngữ do Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim hiệu đính

2 Bản Liễu Văn đường (1866), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm (thiếu từ câu 2977)

3 Bản Liễu Văn đường (1871), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

4 Bản Lâm Noạ Phu (1870), do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm

5 Bản Kiều Oánh Mậu (1902), do Nguyễn Thế và Phan Anh Dũng phiên âm

Theo lệ tục chiêu hồn, chàng Kim xót thương quá nỗi;
May tái sinh lại gặp, nàng Kiều mừng rỡ chi cân.


Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
2740. Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương[?].
Từ ngày muôn dặm phù tang,
Nửa năm ở đất Liêu Dương lại nhà.
Vội sang vườn Thuý dò la,
Nhìn phong cảnh cũxem phong cảnh[?], nay đà khác xưa.
2745. Đầy vườn cỏ mọc, lau lưa thưa,
Song trăngmây quạnh quẽ, vách mưa rã rời.
Trước sau nào thấy bóngmặt người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.

Xập xoè én liệng lầulạnh tườngliệng rườnglạnh lầu không,
2750. Cỏ lan mặt đất, rêu phong dấu giày.
Cuối tường gai gốcgóc mọc đầy,
Đi về, này những lối này ngàynăm xưa.
Chung quanh lặnglạnh ngắt như tờ,
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755. Láng giềng có kẻ sang chơi,
Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
Hỏi ông, ông mắc tụng đình,
Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộccứu cha.
Hỏi nhà, nhà đã dời xa,
2760. Hỏi chàng Vương vớiVương Quan lạichàng Vương Quan cùng là Thuý Vân.
Đều là sa sút, khó khăn,
Thuê may, bán viếtMay thuê, viết mướn, kiếm ăn lần hồi[?].
Điều đâu sét đánh lưng trời,
ThoắtThoạt nghe, chàng thoắt rụng rời xiết bao!
2765. Vội hanHỏi thăm di trú nơi nao,
ĐánhKiếm đường, chàng mới tìm vào tận nơi.
Nhà tranh, vách đất tả tơi,
Lau treo rèm nátthấp, trúc gàicài phên thưa.
Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770. Càng ngao ngán nỗi, càng ngơ ngẩn dường!
Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
Chàng Vương nghe tiếng, vội vàng chạy ra.
Dắt tay vội rước vào nhà,
Mái sauMé sauMái lầu, viên ngoại ông bà ra ngay.

2775. Khóc than kể hết niềm tây:
“Chàng ôi! Biết nỗi nước này cho chưa?
Kiều nhi phận mỏng như tờ,
Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
Gặp cơn gia biến lạ dường,
2780. Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
Dùng dằng khi bước chân ra,
Cực trăm nghìn nỗi, dặn ba bốn lần.
Trót lời nặng với lang quân,
Mượn con em nó Thuý Vân thay lời.
2785. GọiHội là trả chút nghĩa người,
SầuTình này dằng dặc muôn đời chưa quên!
Kiếp này duyên đã phụ duyên,
Dạ đài còn biết, sẽ đền lai sinh.
Mấy lời ký chú đinh ninh,
2790. GhiGửi lòng để dạlại, cất mình ra đi.
Phận sao bạc bấy, Kiều nhi!
Chàng Kim về đó, con thì đi đâu?”
Ông bà càng nói càng đau,
Chàng càng nghe nói, càng dàu như dưa.
2795. Vật mình vẫygàobão gió, tuôn mưa,
Dầm dề giọt ngọc, thẫn thờ hồn mai.
Đau đòi đoạn, ngấtghẻ đòi thôi,
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê.

Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
2800. NhậnNhịn ngừng, ông mới vỗ về giảinàilại khuyên:
“Bây giờđã ván đã đóng thuyền,
Đã đành phận bạc, khôn đền tình chung!
Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
Nghìn vàng thân ấy, dễthôi hòng bỏ sao?”
2805. Dỗ dành, khuyên giải trăm chiều,
Lửa phiền càngkhôn dập, càng khêu mối phiền.
Nặng lòng thương phận thơ đào,
Sẻ lòng, đoài chút tuổi cao thân tàn.

Thề xưa giở đến kim hoàn,
Của xưa lại giở đến đàn vớiđến hương.
Sinh càng trông thấy, càng thương,
2810. Gan càng tức tối, ruột càng xót xa.
Rằng: “Tôi trót quálỡ chântrời ra,
Để cho đến nỗi trôi hoa, dạt bèo.
Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
Những điều vàng đá, phải điều nói không!
2815. Chưa chăn gối, cũng vợ chồng,
Lòng nào mà nỡvăn dứt lòng cho đang?
Bao nhiêu của, mấy ngày đàng,
Còn tôi, tôi gặp mặtmột gặp nàng mới thôi!”
Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820. Tạ từ, sinh mới sụt sùi trởbước ra.

Vội về sửa chốn vườn hoa,
Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
Thần hôn, chăm chút lễ thường,
Dưỡng thân, thay tấm lòng nàng ngày xưa.
2825. Đinh ninh mài lệgiọt, chép thư,
Cắt người tìm tõi, đưa tờ nhắn nhegia.
Biết bao công mượn, củamướn, củamướn, công thuê,
Lâm ThanhChuy mấy độ đi về dặm khơi.
Người một nơi, hỏi một nơi,
2830. Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
Sinh càng thảm thiết, khát khao,
Như nung gan sắt, như bào lòng son.
Ruột tằm ngày một héo dòndon,
Tuyết sương ngày một hao mòn mìnhhình ve.
2835. Thẩn thơThẫn thờ, lúc tỉnh, lúc mê,
Máu theo nước mắt, hồn lìa chiêm bao.

XuânThung huyên lo sợ xiết baosao,
Quá ra, khi đến thế nào mà hay!
Vội vàng sắm sửalễ chọn ngày,
2840. Duyên Vân sớm đã xe dây cho chàng.
Người yểu điệu, kẻkhách văn chương,
Trai tài, gái sắc, xuân đương vừa thìkịp kỳ.
Tuy rằng vui chữ vuthủ quy,
Vui này, đã cấtgác sầu kia được nào!
2845. Khi ăn ở, lúc ra vào,
Càng sâuâu duyên mới, càng dào tình xưa.
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
Tuôn châu đòi trận, vò tơ trăm vòng.
Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850. Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa.
Bẻ bai, rủ rỉ tiếng tơ,
Trầm bay nhạt giókhói, gió đưa lay rèm.
Dường như bên nóc, bênốc, bênchái trước thềm,
Tiếng Kiềukiều đồng vọng, bóng xiêm mơ màng.
2855. Bởi lòng tạc đá, ghi vàng,
Tưởng nàng, nên lại thấy nàng về đây.


Những là phiền muộn đêm ngày,
Xuân thu, biết đã đổi thay mấy lần.
Chế khoa gặp hội tràng văn,
2860. Vương, Kim, cùng chiếm bảng xuân một ngày.
Cửa trời rộng mở đường mây,
Hoa chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần.
Chàng Vương nhớ đến xa gần,
Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
2865. Tình xưa, ân trả, nghĩa đền,
Gia thân bènlạilúc mới kết duyên Châu Trần.

Kim từChàng càng nhẹ bước thanh vân,
Nỗi nàngchàng, càng nghĩ xa gần, càng thương.
Ấy ai dặn ngọc, thề vàng,
2870. Bây giờ Kim Mã, Ngọc Đường với ai.
RễNgọn bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ mình vinh hiển, thương người lưu ly.
Vâng ra ngoại nhậmtể Lâm Chuy,
QuanKhai sơn nghìn dặm, thê nhi một đoàn.
2875. Cầm đường ngày tháng thanh nhàn,
Sớm khuya tiếng hạc, tiếng đàn tiêu dao.
PhòngĐêm xuân trướng rủ hoa đào,
Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
Tỉnh ra mới rỉhọc cùng chàng,
2880. Nghe lời, chàng cũng hai đường tin, nghi.
Nọ Lâm Thanh với Lâm Chuy,
Khác nhau một chữ, hoặc khi có lầm.
Trong cơ, thanh khí tương tầm,
Ở đây hoặchoạgiai âm chăng là?
2885. Thăng đường chàngnàng mới hỏi tra,
Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
“Sự này đã ngoại mười niên,
Tôi đà biết mặt, biết tên rành rành.
Tú Bà cùng Mã Giám Sinh,
2890. Đi mua người ở Bắc Kinh đưa về.
Thuý Kiều tài sắcsắc sảo ai bì,
Đã nghề đàn, lại đủ nghề văn thơ.
Kiên trinh chẳng phải gan vừa,
Liều mình thế ấy, phải lừa thế kia.
2895. Phong trần chịu đã ê chềnặng nề,
Dây duyên, sau lại gảxe về Thúc lang.
Phải tay vợ cả phũ phàng,
Bắt về Vô Tích, toan đường bẻ hoa.
Bực mình, nàng phải trốn ra,
2900. Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
Thoắt buôn về, thoắt bán đi,
Mây trôi bèo nổi, thiếu gì là nơi!
Bỗng đâu lại gặp một người,
Hơn ngườiđời trí dũng, nghiêng trời uy linh.
2905. Trong tay muônmười vạn tinh binh,
Kéo về đóng chật một thành Lâm Chuy.
Tóc tơ các tích mọi khi,
Oán thì trả oán, ân thì trả ân.
Đã nên có nghĩa, có nhân,
2910. Trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen.
Chưa tường được họ đượcSong còn chưa biết họ tên,
Sự này, hỏi Thúc Sinh viên mới tường.”

Nghe lời Đô nói rõ ràng,
Tức thìLiền sai đệđưanghênh thiếp mời chàng Thúc Sinh.
2915. Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
Chồng con đâu tá, tính danh là gì?
ThúcSinh rằng: “Gặp lúc lưuloạn ly,
Trong quân, tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
Đại vương tên Hải, họ Từ,
2920. Đánh quen trăm trận, sức dư muôn người.
Gặp nàng thờingày ở châu Thai,
Lạ gì quốc sắc, thiên tài phải duyên.
Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
Làm chonên động địa, kinh thiên đùng đùng.
2925. Đại quân đồnđồn quân đóng cõi đông,
Về sau chẳng biết vân mồng làm sao?”
Nghe tường ngành ngọn tiêu hao,
Lòng riêng, chàng luốngluống những lao đao, thẫn thờ.
Xót thay chiếc lá bơ vơ,
2930. Kiếp trần, biếtphong trần, giũ bao giờ cho xong?
Hoa theotrôi nước chảy xuôi dòng,
Xót thân chìm nổi, đau lòng hợp tan!
Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
Mảnh hươnggương còn đó, phím đàn còn đây.
2935. Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
Bình bồng còn chútkẻ xa xôi,
Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an!
Rắp mong treo ấn từ quan,
2940. Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng quapha.
Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử, hoạ là thấy nhau.
Nghĩ điềuLại e trời thẳm, vực sâu,
Bóng chim tăm cá, biết đâu mà nhìn?
2945. Những là nấn ná đợi tin,
Nắng mưa đã biếtbiết đã mấy phen đổi dời!
Năm mây, bỗng thấy chiếu trời,
Khâm ban sắc chỉ đếntới nơi rành rành:
Kim thìnay cải nhậmđiệu Nam Bình,
2950. Chàng VươngVương thì cũng cải nhậmđiệu thành PhúHoàiThưDuy Dương.
Sắm sanh xe ngựaxa mã vội vàng,
Hai nhà cũng thuận một đường phó quan.

Xảy nghe thế giặc đã tan,
Sóng êm Phúc Kiến, lửa tàn Chiết Giang.
2955. Được tin Kim mới rủ Vương,
Tiện đường, cùng lại tìm nàng sau xưa.
Hàng Châu đến đó bấy giờ,
Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
Rằng: “Ngày hômRằng: “Thì sớm“Từ ngày hômRằng: “Ngày sớmRằng: “Ngày hôm nọ giao binh,
2960. Thất cơ, Từ đã thu linh trận tiền.
Nàng Kiều công cả, chẳng đền,
Lệnh quân lại bắt épép vào duyên thổ tù.
Nàng đà gieo ngọc, trầm châu,
Sông Tiền Đường đó, ấy mồ hồng nhan!”
2965. Thương ôi! Không hợp mà tan,
Một nhà vinh hiển, riêng oan một nàng!
Chiêu hồn, thiết vị, lễ thường,
Giải oan, lập một đàn tràng bên sông.
Ngọn triều non bạc trùng trùng,
2970. VờiNgùi trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo.
Tình thâm, bể thảm, lạ điều,
Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào?

Cơ duyên đâu bỗng lạ sao?
Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đếntới nơi.
2975. Trông lên linh vị chữ bài,
Thất kinh mớivội hỏi: “Những người đâu ta?
[...]Với nàng thân thích gần xa?
Người còn, sao bỗng làm ma khóc người?”
Nghe tin ngơ ngácnhớ nhácnhơ nhác rụng rời,
2980. Xúm quanh kể họlể, rộn lời hỏi tra:
“Này chồng, này mẹ, này cha,
Này là em ruột, này là em dâu.
Thật tin nghe đã bấy lâu,
Pháp sư dạy thế, sự đâu lạ dường!”
2985. Sư rằng: “Nhân quả với nàng,
Lâm Chuy buổilúc trước, Tiền Đường buổi sau.
Khi nàng gieo ngọc, trầm châu,
Đón nhautheo, tôi đã gặp nhau rước về.
Cùng nhau nương cửa bồ đề,
2990. Thảo am đó, cũng gần kề chẳng xa.
Phật tiền ngàynhà bạc lân la,
Đăm đăm, nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.”

Nghe tin, nở mặt, mở mày,
Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995. Từ phen chiếc lá lìa rừng,
Thăm tìm luống những liệu chừng nước mâynon.
Rõ ràng hoa rụng, hương bay,
Kiếp sau hoạ thấy, kiếp này hẳn thôi.
Minh dương, đôi ngả chắc rồi,
3000. Cõi trần mà lại thấy người Cửu Nguyên.
CùngXếpQuây nhau lạybái tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ, theo liền một khi.
Bẻ lau, vạch cỏ tìm đi,
Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005. Quanh co theo dãydải giang tân,
Khỏi rừng lautrăng lao đã tới sân Phật đường.
Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
BuồngPhòng trong, vội dạo sen vàngnàng đã vội vàng bước ra.
TrôngNhìnXảy xem đủ mặt một nhà:
3010. Xuân già còn khoẻ, huyên già còn tươi.
Hai em phương trưởng hoà hai,
Nọ chàng Kim đó, là người ngày xưa!
Tưởng bây giờ là bao giờ,
Rõ ràng mở mắt, còn ngờ chiêm bao!
3015. Giọt châu thánh thót quyếnquẹn bào,
Mừng mừng, tủi tủisợ sợ, xiết bao sựbao làsao là tình!

Huyên giàGieo mình dưới gối gieo mìnhhuyên đình,
Khóc than, mình kểkể lại sự mìnhtình đầu đuôi:
“Từ con lưu lạc quê người,
3020. Bèo trôi, sóng vỗ, chốc mười lăm năm.
Tính rằng sông nước cát lầm,
Kiếp này, ai lại còn cầm gặp đây?”
Ông bà trông mặt, cầmbắttrao tay,
Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025. Bấy chầy dãi nguyệt, dầu hoa,
Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
Nỗi mừng, biếtông lấy chi cân?
Lời tan hợp, chuyện xa gần, thiếu đâu?
Hai em hỏi trước, han sau,
3030. Đứng trông, chàng cũngnàng cũngnàng đã trở sầu làm tươi.


Đoạn này ứng với Hồi 20 trong nguyên truyện: “Kim Thiên Lý khổ ai, ai chiêu sinh hồn; Vương Thuý Kiều hỷ tư, tư hoàn túc nguyện” 金千里苦哀哀招生魂;王翠翹喜孜孜完宿願 (Kim Thiên Lý đau buồn làm lễ chiêu hồn; Vương Thuý Kiều vui vẻ nguyền ước cũ).


[Thông tin 2 nguồn tham khảo đã được ẩn]