關夫子廟讚

天眷西顧,
篤生神武。
炎祚式微,
匪躬之故。
秀園一敘,
兄弟君臣。
左周右旋,
歷坎履屯。
北魏東吳,
三分鼎足。
匹馬單刀,
帝漢於蜀。
赤精一線,
沖漠可回。
高光舊物,
唾手重恢。
匪直也勇,
匪直也智。
忠義流光,
千秋仰止。
閟宮有侐,
遺像有嚴。
默扶我越,
赫赫炎炎。

 

Quan phu tử miếu tán

Thiên quyến tây cố,
Đốc sinh thần võ.
Viêm tộ thức vi,
Phỉ cung chi cố.
Tú viên nhất tự,
Huynh đệ quân thần.
Tả chu hữu toàn,
Lịch khảm lý truân.
Bắc Nguỵ, Đông Ngô,
Tam phân đỉnh túc.
Thất mã đơn đao,
Đế Hán ư Thục.
Xích tinh nhất tuyến,
Xung mạc khả hồi.
Cao, Quang cựu vật,
Thoá thủ trùng khôi.
Phỉ trực dã dũng,
Phỉ trực dã trí.
Trung nghĩa lưu quang,
Thiên thu ngưỡng chỉ.
Bí cung hữu tuất,
Di tượng hữu nghiêm.
Mặc phù ngã việt,
Hách hách viêm viêm.

 

Dịch nghĩa

Hướng tây trời chiếu lại,
Giáng sinh đấng thần võ.
Vận nhà Hán gặp hồi suy vi,
(Ngài) nghiêng mình chống đỡ.
Vườn đẹp tỏ một tấm lòng thành,
Anh em cũng là vua tôi.
Phải trái chở che nhau,
Trải bao gian khổ.
Phía Bắc có Nguỵ, Đông có Ngô,
Chân vạc chia ba,
Một ngựa, một dao,
Vua Hán ở Thục,
Lòng son bền một mối,
Xông pha cát bụi thu về.
Cao, Quang cơ nghiệp cũ,
Nhổ nước bọt xoa tay là khôi phục được.
Chính trực là dũng,
Chính trực là trí
Trung nghĩa mãi sáng tỏ,
Nghìn thu không ngớt được ngưỡng mộ.
Cung thờ kín đáo, thanh tĩnh,
Tượng (của ngài) để lại rất uy nghiêm.
Âm thầm phù hộ cho nước Việt ta
Rạng rỡ, hiển hách.


Lạc khoản: “Cảnh Hưng Ất Mùi chi hạ, tả tướng quân Hồng Ngư cư sĩ đề” 景興乙未之夏,左將軍鴻魚居士題 (Cảnh Hưng, năm Ất Mùi, mùa hạ, tả tướng quân cư sĩ Hồng Ngư viết).

Tháng 3 năm Ất Mùi (1775), Quận Xuân và Quận Việp hợp quân tiến đánh Quảng Nam. Khi đưa quân vào chiếm đóng Hội An, Nguyễn Nghiễm đã đến thăm miếu Quan phu tử (Quan Công) và cảm khái làm bài thơ Sư để Hội An phố đề Quan phu tử miếu và bài tán Quan phu tử miếu tán. Hai vị tuỳ tướng là tiến sĩ Uông Sĩ Dư, tiến sĩ Nguyễn Lệnh Tân đã hoạ nguyên vận bài thơ Sư để Hội An phố đề Quan phu tử miếu và tự tay viết cả ba bài thơ và bài tán rồi sai thợ khắc chạm thành ba tấm hoành phi treo trên bái đường ngôi miếu. Tương truyền, không chỉ có miếu Quan Công mà rất nhiều di tích khác của xứ Quảng nói chung, Hội An nói riêng đã được Nguyễn Nghiễm đề thơ.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Quang Ái

Điềm lành trời tây tỏ,
Bậc thần võ giáng sinh.
Gặp lúc Hán điêu linh,
Phải nghiêng mình chống đỡ.
Vườn đào mở lòng thành,
Vua tôi tình huynh đệ,
Bảo vệ nhau chu toàn.
Qua nguy nan, khốn khổ.
Bắc có Nguỵ, đông: Ngô,
Chân vạc xẻ cơ đồ.
Một thanh đao, một ngựa.
Đất Thục phò Hán chúa,
Lòng son trọn một bề.
Cao, Quang cơ nghiệp cũ
Xông tên đạn thu về,
Gắng ra tay khôi phục.
Một tấm lòng chính trực,
Sinh dũng lực, trí tài.
Trung nghĩa toả lâu dài,
Nghìn thu nồng hương lửa.
Thanh tịnh nơi thờ tự,
Uy nghiêm tượng trên toà,
Ngầm giúp nước Việt ta,
Mãi vẻ vang, hiển hách.

tửu tận tình do tại
15.00
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Hướng tây trời chiếu lại đây,
Giáng sinh thần võ đấng này hiện ra.
Gặp hồi vận Hán suy mà,
Nghiêng mình chống đỡ ngài là thần trung.
Tỏ lòng vườn đẹp thành chung,
Anh em kết nghĩa cũng cùng vua tôi.
Chở che phải trái nhau thôi,
Trải bao gian khổ bao hồi đắng cay.
Đông Ngô, Bắc Nguỵ, đã bày,
Giang sơn chân vạc đến ngày chia ba,
Một dao một ngựa xông pha,
Hán Lưu ở Thục đất nhà, phía tây
Lòng son một mối giữ ngay,
Xông pha cát bụi thu này về kinh.
Cao, Quang cơ nghiệp một mình,
Xoa tay, khôi phục lòng tin anh hùng.
Trí, lòng chính trực chính trung,
Nghĩa trung mãi sáng tỏ cùng thế gian,
Nghìn thu không ngớt khói nhang.
Tĩnh, thanh, kín đáo, sửa sang cung thờ,
Tượng ngài để lại uy nghiêm.
Âm thầm phù hộ Việt thêm mạnh giàu,
Rạng ngời, hiển hách trước sau,
Ngàn năm còn đó đượm màu cổ xưa.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời