Đăng bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 14/08/2009 15:31
Đã sửa 3 lần, lần cuối bởi Bùi Thuỵ Đào Nguyên vào 03/04/2010 12:48
Nguyễn Hữu Huân 阮友勳 (?-1875) được biết nhiều với danh hiệu Thủ Khoa Huân. Ông là một sĩ phu yêu nước, một lãnh tụ khởi nghĩa chống thực dân Pháp ở Nam Kỳ (Việt Nam) vào khoảng cuối thế kỷ 19. Quê quán ông ở làng Mỹ Tịnh An, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; nay là xã Hoà Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Thuở nhỏ ông thông minh và học giỏi. Tương truyền, năm Nhâm Tý (1852) dưới triều Tự Đức, ông dự thi Hương và đỗ đầu, nên được gọi là Thủ Khoa Huân. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Giáo thụ huyện Kiến Hưng.
Khi quân Pháp xâm lược ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (trong đó có tỉnh Định Tường quê ông), cũng giống như nhiều nhà nho yêu nước khác, ông đã cầm vũ khí đứng lên chống Pháp vào tháng 5 năm 1959, và được sung chức Phó quản đạo.
Năm 1861, ông cùng nghĩa quân hoạt động trên địa bàn từ Tân An đến Mỹ Tho. Khoảng tháng 6 năm 1862, Nguyễn Hữu Huân đem nghĩa quân gia nhập lực lượng Trương Định.
Ngày 5 tháng 2 năm 1863, quân Pháp tấn công vào căn cứ Tân Hoà (Gò Công). Căn cứ thất thủ, Trương Định kéo quân về vùng Lý Nhơn (nay thuộc huyện Duyên Hải, thành phố Hồ Chí Minh). Khi ấy, Nguyễn Hữu Huân về khởi nghĩa ở Bình Cách (Tân An), trực tiếp lãnh đạo lực lượng nghĩa quân ở Định Tường. Quân Pháp tấn công Bình Cách, Nguyễn Hữu Huân phải rút quân về Thuộc Nhiêu (nay thuộc Cai Lậy, Tiền Giang),
Tháng 6 năm 1863, lúc ban đêm Pháp bất ngờ đem quân càn quét căn cứ Thuộc Nhiêu. Đến đến cuối năm đó, thì ông rút quân đến An Giang gặp Võ Duy Dương (còn gọi là Thiên Hộ Dương). Đầu năm sau (1864), ông cùng Võ Duy Dương chiêu mộ nghĩa binh để khởi nghĩa lần thứ hai.
Nguyễn Hữu Huân cho chuyển quân về vùng Thất Sơn, An Giang tiếp tục chiến đấu. Bộ chỉ huy quân đội Pháp rất lo ngại nên gửi tối hậu thư, buộc Tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thân phải giao nộp Thủ Khoa Huân cho họ làm tội, viện lẽ ông Huân không tuân theo hoà ước 1862. Án sát Phạm Hoàng Đạo hay tin tâu lên vua Tự Đức, xin đưa ngay Nguyễn Hữu Huân về Huế. Thế nhưng do áp lực của người Pháp, tháng 7 năm 1864, Tổng đốc Thân đã phớt lờ lệnh vua, bắt ông giao nộp cho thực dân [1].
Vợ Thủ Khoa Huân là Lê Thị Lộc đã làm đơn kiện viên quan đầu tỉnh An Giang về việc đã không tuân theo chiếu chỉ, đồng thời đòi Pháp phải thả ngay chồng mình. Ở Sài Gòn, mặc dù Pháp đem mọi thứ ra dụ dỗ nhưng ông vẫn kiên quyết chối từ. Cuối cùng, vào ngày 22 tháng 8 năm 1864, ông bị kết án 10 năm tù khổ sai và bị đày đi Cayenne, là một thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Về sự việc này, Định Tường Thủ Khoa Huân tiểu truyện có đoạn: Năm Giáp Tý, chính quyền Pháp kết án Nguyễn Hữu Huân mười năm khổ sai, đày ra biển cả ở Nam Mỹ châu, tục gọi Cai Danh (tức Cayenne, thuộc Guyane). Trong Hồ sơ cá nhân Đỗ Hữu Phương cũng cho biết tương tự: Thủ Khoa Huân, dính líu trong một vụ phiến loạn, từng bị đày đi Cayenne [2].
Sau 5 năm tù, ngày 4 tháng 2 năm 1869, Pháp cho lệnh ân xá và đưa ông về quản thúc tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, đồng thời cử ông làm giáo thọ dạy bảo cho các “sinh đồ” ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía họ.
Lợi dụng điều kiện đi dạy học, Nguyễn Hữu Huân liên lạc với các sĩ phu yêu nước và hội kín Hoa kiều Trường Phát, nhờ mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa.
Trong khi cuộc khởi nghĩa đang được chuẩn bị khẩn trương, nhờ do thám nên Pháp bắt được thuyền chở vũ khí. Trước tình hình bất lợi đó, ông ra lệnh giải tán, bí mật tìm đường về lại Mỹ Tho họp cùng Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa lần thứ ba. Lần này dân chúng theo ông rất đông, trong số đó có cả một số hương chức, hội tề, địa chủ... địa bàn kháng chiến của ông kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý - Cai Lậy.
Đầu năm 1875, thất trận ở Bình Cách, Thủ Khoa cùng tuỳ tùng là Đốc binh Hương về Chợ Gạo, dự định quá giang thuyền buôn ra Bình Thuận cầu viện. Nhưng vì bị Trần Bá Lộc mua chuộc, nên Đốc binh Hương đã dẫn quân bắt Nguyễn Hữu Huân tại Chợ Gạo ngày 15 tháng 05 năm 1875, rồi đem giam ông ở Mỹ Tho.
Sau 4 ngày dùng mọi mưu chước chiêu hàng không thành, Pháp kết án tử hình Nguyễn Hữu Huân. Trước khi thụ hình, ông nhắn vợ con tế sống mình trong một tuần và xin vải viết bài thơ tuyệt mệnh (bài Mang gông) và hai câu liễn (Liễn tuyệt mệnh) để thờ.
Ngày 15 tháng 4 năm Ất Hợi (19 tháng 5 năm 1875), thực dân Pháp cho tàu chở Nguyễn Hữu Huân xuôi theo dòng Bảo Định về Mỹ Tịnh An và hành quyết ông lúc 12 giờ trưa.
Nguyễn Hữu Huân làm nhiều thơ không nhiều, và hầu hết sáng tác của ông đều làm trong thời kỳ kháng Pháp. Tuy nhiên, qua hai bài thơ Tặng vợ (làm lúc bị Pháp bắt lần đầu), bài Tự thuật (làm khi bị đày sang Guyan), bài Mang gông (làm lúc sắp bị chém chết) và nhiều bài khác như: Bửa củi, Cảm hoài, Thuật hoài, Hò khoan ca, Khi được tha về... đều tỏ rõ ý chí bền bỉ tranh đấu vì đất nước và nhân dân của ông. Vì vậy, Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là “một hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ 19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ.”
Hai câu liễn tuyệt mệnh do Nguyễn Hữu Huân làm trước khi mất hiện được treo trang trọng tại bàn thờ ông ở Mỹ Tịnh An:
Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị,Trên đường từ TP. Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho, khi đến ngã ba Tân Hiệp, rẽ trái, đi khoảng 5 cây số, sẽ đến Tịnh Hà. Gần chiếc cầu sắt Cai Lộc bắc qua rạch Bảo Định, rẽ trái, đi thêm một đoạn nữa, thì sẽ thấy đình thờ và phần mộ của Thủ Khoa Huân. Trước kia, nơi đây kéo dài ra cầu sắt Cai Lộc là bãi chợ Phú Kiết. Trở ra cầu Cai Lộc cạnh ngã tư (đường xuống Nhựt Tiên, đường ra Phú Kiết, đường về Tân An, đường Lên giồng Tân Hiệp) sẽ thấy một tấm bia mộ kỷ niệm nơi ông thọ án.
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.
(Việc lớn không thành, báo chúa cũng đành liều một chết;
Lòng ngay khó tỏ, miệng đời luống để luận trăm năm.)
Đăng bởi tôn tiền tử vào Hôm qua 12:19
Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân là vị anh hùng dân tộc, đồng thời là nhà thơ nổi tiếng trong giai đoạn đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Tấm lòng trung trinh son sắt của ông đối với đất nước ví như viên ngọc sáng chói, tỏ rực bầu trời đen ngòm của đất nước đương thời.
Tuy nhiên, dù đã trải qua 145 năm từ ngày ông đền xong nợ nước, hiểu biết của hậu thế về ông vẫn còn khá tù mù, ngoài tập tiểu truyện gồm 7 trang chữ Hán Nôm và khoảng 12 bài thơ, cộng thêm vài tài liệu của Pháp được tìm thấy trong các trung tâm lưu trữ. Do đó, trách nhiệm của lớp hậu sinh là phải ra sức khắc phục sự tàn phá của thời gian và sự lãng quên của nhân thế để quyết tìm cho ra được những mảng tiểu sử về hành trạng và tâm hồn của ngài Thủ khoa vốn đang còn bị che lấp.
1. Thủ khoa Huân bị đày đi đâu và bao lâu?
Ngày 22/8/1864, Thủ khoa Huân bị kết án chung thân đày đi “đại hải”. Mà “đại hải” là đâu? Trần Nghĩa trong Kỉ yếu hội thảo Nguyễn Hữu Huân – tấm gương kiên trung bất khuất của người trí thức yêu nước (1976) cho biết Thủ khoa Huân bị đày đi đảo Réunion (tức đảo Bòn-bon thuộc Madagascar), nằm về đông nam lục địa Phi châu thuộc Ấn Độ Dương.
Thế nhưng Tiểu truyện bản Hán Nôm (còn được gọi là Định Tường Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiểu truyện), bản của Viện KHXH tại TP.HCM được các tác giả Phạm Thiều, Cao Tự Thanh, Lê Minh Đức sử dụng trong cuốn Nguyễn Hữu Huân – nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất (2001) lại khẳng định Thủ khoa Huân bị đày đi đảo Cai Danh (該名/ Cayenne) thuộc Nam Mĩ, dựa vào một bản khai hồ sơ cá nhân của Đỗ Hữu Phương (Dossier individuel Đỗ Hữu Phương) vốn không đề ngày và không kí tên đóng dấu, trong Services Locaux [1].
Địa danh Cayenne này cũng đã được một số sĩ phu yêu nước đầu thế kỉ XX cho rằng đó là nơi Thủ khoa Huân bị lưu đày, chẳng hạn Trương Gia Mô trong bài Vịnh Nguyễn Hữu Huân (1920) cũng ghi nhận:
Lãnh đạo dân quân vùng An Định,Riêng sử sách chính quy của triều Nguyễn thì Đại Nam thực lục ghi chung chung rằng Thủ khoa Huân bị đày ra hải ngoại vào năm 1874 (Tự Đức thứ 27) tới 1875 (Tự Đức thứ 28), còn Đại Nam liệt truyện ghi Thủ khoa Huân bị đày từ năm 1868 (Tự Đức thứ 21) tới 1875 (Tự Đức thứ 28).
Sa cơ đày biệt đảo Cay-den. [2]