Tùng cúc ngày xưa thấy đặng còn
Thân này chẳng thẹn với sông non.
Miếu đường xa cách niềm tôi chúa,
Gia thất buộc ràng nghĩa vợ con.
Áo Hán mười phần thay cách lạ,
Rượu Hồ một mực đắm mùi ngon.
Giang Đông vẫn biết nhiều anh tuấn,
Cuốn đất kìa ai dám hỏi don.


Theo Định Tường thủ khoa Nguyễn Hữu Huân tiểu truyện (sách cũ, không rõ tác giả) thì bài này do ông làm lúc bị giam cầm ở đảo Cayenne, và có đầu đề là Tư (nhớ) quê hương. Tuy nhiên theo nghiên cứu của các tác giả sách Nguyễn Hữu Huân: nhà yêu nước kiên cường, nhà thơ bất khuất, thì bài này phải được sáng tác lúc ông được thả về Việt Nam. Vì lẽ đó, nhóm tác giả sách đã đặt tên cho bài thơ như trên.

Khảo dị:
Nghĩ thẹn râu mày với nước non,
Nhìn nay tùng cúc, bạn xưa còn
.
Miếu đường cách trở đường tôi chúa,
Gia thất riêng buồn nỗi vợ con.
Áo Hán nhiều phen thay vẻ lạ,
Rượu Hồ một mặt đám mùi ngon.
Giang Đông nổi tiếng nhiều tay giỏi,
Cuốn đất kìa ai, dám hỏi đon.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]