Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Hữu Huân
Đăng bởi tôn tiền tử vào 09/04/2015 14:08, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 15/12/2018 16:12
Bày vóc mình thoạt đã nằm trơ;
Bặt tăm tiếng sao không dậy sửa!
Hỡi ôi:
Hết tưởng ba ơn;
Đã về một ngỏ.
Nhớ chó xưa:
Tánh khí vốn ngừ nghè;
Nết na hay cử cỏ.
Ở trời Nghiêu an phận, đem thân nhờ người Chích chẳng dời;
Nằm đất Thục khoanh đuôi, giật mình sửa vầng hồng đương lố.
Lạc đường ngàn dặm, dẫn chủ nhân chẳng lộn đường về;
Giữ cửa năm canh, ngăn đạo giả đã khua tai mỏ.
Nào mấy ai hết sức, nương mây xanh theo Ngủ Bị ngày xưa;
Cũng có kẻ toan mưu, trộm áo trắng cứu Mạnh Thường thuở nọ.
Lòng không quên chủ, gặp người quen ngồi lại liếm quanh;
Tánh ỷ gần nhà, thấy kẻ lạ chạy ra nhảy bổ.
Ngươi bao quản lời qua cửa miệng, gã Tôn Thông chê lũ cẩu du;
Mầy đã đành ôn tạc trong xương, ông Hán tổ vì công Quan Võ.
Khi thanh vắng ở nhà gìn giữ, dấy oai phong khiếp chuột kiêng mào;
Lúc thảnh thơi theo chủ săn chơi, dở kỵ nghệ rượt chồn bắt thỏ.
Những tưởng ở miền thế tục, sống trăm năm rộng vóc dài lưng;
Nào hay đâu bị lũ ăn chơi, rủi một phút nhăn răng méo mỏ.
Ôi:
Hồn xuống chín sông;
Thịt ra một rổ.
Thương ơi thương, mình rướm mở vàng;
Thảm ỷ thảm, thịt sa lửa đỏ.
Đồ tống táng có tương, có mè, có sả, có đậu, nấu nướng rồi dọn đầy mâm;
Việc tế chay nầy hầm, nầy xáo, nầy lụi, nầy phay, muối mè đủ múc rồi khoả tộ.
Trên trước các thầy liêu lại, đũa đôi cây khều gã vào mồm;
Dưới sau mấy đứa em hầu, rượu ba chén đưa mầy vào cổ.
Chẳng sống chi nằm chái nằm hè;
Thà thác đặng lên mâm lên cỗ.
Thời nào thuở, cơm thì thừa, canh thì mặn, thấy ốm đau nào kẻ có màng;
Đến lúc này, thịt thì béo, hơi thì thơm, nghe xào xáo nhiều người hỏi dọ.
Dầu có ức mi lên thưa cùng Phật Tổ;
Sao Trí Thâm thành Phật ngũ đài?
Như có oan, gã kiện xuống Diêm La;
Sao Phàn Khoái phong hầu vạn hộ?
Phải tánh ngươi thuần hậu, dễ ai tài chẳng thương tày;
Bởi nết gã lăng loan, nên phải sống sao đáng số!