Thơ » Việt Nam » Tây Sơn » Nguyễn Hữu Chỉnh
Than ôi!
Đạo hiếu trung là phận, miễn dự gian thần tử thường kinh;
Cơ hoạ phúc bởi trời, chi khả luận anh hùng thành bại.
Nhớ ông xưa:
Nghiệp nối cơ cầu;
Nhà truyền huân phiệt.
Nghề thao lược gác linh đã sẵn, nối Chu đình nọ có Á Phu;
Việc phiên hàn bể học lại khơi, dòng Tào thị nối danh Tử Vĩ.
Chí hồ thỉ rắp lăm le tứ sạ;
Nghiệp biền thân toan kinh lịch đôi đường.
Cầu Tần mây thẳm chín lần ra tay sạ tước;
Cửa Vũ sóng đào ba đợt rõ mặt đăng long.
Một tiết trung cần;
Hai triều cẩn khác.
Trong cấm vệ việc Hổ Bôn chầu chực, Định công càng nức tiếng Khương Nha;
Ngoài biên thành loài ô thước tiễu trừ, Thái Sử lại nổi danh Tiết thị.
Chữ trung hiếu hằng ghi một tiết;
Đuốc cao thông soi thấu tấm lòng.
Ai Hoan châu nấy việc tuần tuyên, nhiều phen chịu tiếng nhăng nhanh;
Tiết đại thụ thấu trong Hán điện, mặt nam phương cầm quyền chế ngự thét chốn Động Đình.
Trung trinh hằng giữ đạo khôn lam;
Quyến chú lại dự công sư tục.
Trong đài các dự ngôi lục phủ, công bằng cầm thẳng cân Chu;
Ngoài biên thành lo việc bốn phương, phủ ngự giữ bền khoá Tống.
Đạo quân thần phải duyên cá nước;
Đường công danh gặp hội rồng mây.
Thanh cung vâng mệnh bật thừa, ký thác bởi lòng trên khôn xiết;
Tử các chịu lời phụ tá, tựu tương nhưng dạ bé nọ đam.
Vầng thái dương đành soi ruột lão hoa;
Dòng thiếu hải ắt rõ ngồi chấn sưởng.
Xe yến giá bỗng đau lòng Cơ Đán, đền Chu áo cổn thuở triều trưa;
Quyền thác cô đành nặng sức A Hành, xe Bạc núi Đồng cơn buổi sớm.
Lòng ưu ái những chăm xem quốc sự;
Đất nguy nghi nên mặc tiếng nhân ngôn.
Trên chín lần bão dạng ấu xung, đan tâm ra sức khuông phù, nghĩ Thành vương cũng có ngày lệnh đức;
Dưới trăm họ lưu ngôn đố hoặc, xích tích toan đường xa lánh, song Thiệu công khôn tìm kẻ thay quyền.
Lấy một mình hệ quốc an nguy;
Dầu trăm tiếng mặc ai trấm tố.
Ngôi bảo toạ mới loè gương tử cực, phủ Tần Phiên phút dấy dị mưu;
Bút hoa hàn chưa ráo mực long cao, cửa Huyền Vũ sẩy gây đại biến.
Đồi ba vững ngang dòng cột đá;
Long đông bền một tiết thông già.
Trần Kiều mây rợp lá cờ, lòng Hàn tử khăng khăng quốc chủ;
Thích Lí gió lay con mác, nghĩa Tử Do khẩn khẩn vệ quân.
Bảy thụ di ai nấy đồng tâm;
Một cô khổn cam bề tựu nghĩa.
Chữ đồng ký hãy rành rành trước mặt, trông vào thêm hổ kẻ đỉnh chung;
Lời di ngôn văng vẳng bên tai, nghe biết luống thẹn người lương đống.
Khi thất thế phải chăng nào biện;
Lúc sa cơ có thuận nghịch khôn lường.
Ngậm ngùi thay một cửa hiếu trung, cứu việc nước dẫu nhà chi dám tiếc;
Đau đớn nhỉ hai đời tiết nghĩa, bả ơn trên cho mệnh bạc phải liều.
Xét lòng cậy có tiên quân;
Vắng mặt nào khuây ấu chúa.
Mặc kẻ vẽ rồng vẽ rắn, đã đành cổn phủ bút xuân thu;
Dù ai rằng ngựa rằng trâu, cậy có nghiên suy vầng nhật nguyệt.