Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Hoàng Cầm » Bên kia sông Đuống (1983)
Đăng bởi Vanachi vào 27/06/2005 22:42, đã sửa 6 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 17/11/2014 18:30
Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
*
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu?
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu, về đâu?
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu, về đâu?
*
Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh
*
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Đêm buông xuống dòng sông Đuống
Con là ai? - Con ở đâu về?
Hé một cánh liếp
- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời khôn nói năng
Đêm buông sâu xuống dòng sông Đuống
Ta mài lưỡi cuốc
Ta uốn lưỡi liềm
Ta vót gậy nhọn
Ta rũa mác dài
Ta xây thành kháng chiến ngày mai
Lao xao hàng cây bụi chuối
Im lìm miếu đổ chùa hoang
Chập chờn đom đóm bay ngang
Báo tin khủng khiếp
Cho giặc kinh hoàng
Từng từng tiếng súng vang vang
Trong đêm khuya thoảng cung đàn tự do
Thuyền ai thấp thoáng bến Hồ
Xoá cho ta hết những giờ thảm thương
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa
Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu xế trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”
Tiếng em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay
“Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu...”
*
Em ơi, đừng hát nữa lòng anh đau
Mẹ ơi, đừng khóc nữa dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm trong tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Trang trong tổng số 2 trang (16 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi DungKD ngày 14/09/2009 09:24
Hai tiếng quê hương cất lên trong cõi sâu kín nhất của tâm linh Hoàng Cầm không chỉ gọi dậy một nỗi nhớ thương mênh mang, thổn thức, một tình yêu sâu nặng, khôn cùng mà còn vang động một nỗi niềm tự hào, say đắm. Bởi đó là miền quê của những tiếng hát lời hò ngọt ngào, mê mải, của những nét vẽ trong sáng, rạng ngời, của những con người hồn hậu, thân thương. Bức tranh Kinh Bắc trải ra trước mắt người đọc theo từng lời thơ, con chữ, tất cả hiện về thật tươi mới, sống động, tưởng như Hoàng cầm đang sống giữa quê hương, cũng náo nức đợi chờ, cũng đắm say, mê mải trước “truyền thống nghệ thuật lâu đời, trước vẻ đẹp cổ kính” ấy.
Thế giới Kinh Bắc hiện về trong đong đầy thương nhớ, trước hết là gọi về những truyền thống ván hoá, lễ hội đẹp đẽ của quê hương:
Bên kia sông ĐuốngHoàng Cầm như đưa người ta trở về một không gian ngập ánh sáng, tràn sắc màu, quấn quện, phảng phất hương vị nồng nàn của lúa nếp, nét tươi trong của tranh Đông Hồ, sắc sáng bùng lên của màu dân tộc. Chọn những nét đẹp tinh tuý, chắt lọc của đất trời Kinh Bắc, Hoàng cầm đã khơi dậy trong lòng người một nỗi niềm quê hương da diết. Nét vẽ bình dị mà rất mực tài hoa, không tả mà chỉ gợi nhưng cũng đủ để thế giới Kinh Bắc hiện về sống động, tươi mới. Hai từ “sáng bừng” như một điểm nhấn đẹp đẽ của câu thơ, không chỉ gọi nét tươi tốt, trong trẻo của tranh Đông Hồ mà còn dựng dậy sức sống rạng ngời của dân tộc. Câu thơ như được thắp sáng trong niềm tự hào, kiêu hãnh hết mực của Hoàng Cầm. Đọc thơ Hoàng cầm không chi nghe được hương lúa nồng nàn lặn sâu vào tâm thức, mê mải, cuốn hút với những nét vẽ trong trẻo, hồn nhiên mà còn gọi dậy một niềm tự hào mạnh mẽ về sức sống dân tộc. Bao trùm không gian Kinh Bắc là một tình yêu sâu nặng, một nỗi nhớ thiết tha của Hoàng Cầm. Tình yêu ấy thổi hồn cho sắc màu trong thơ, khơi dậy ánh sáng trong thơ để rồi những câu thơ viết về quê hương cứ ngân vang một nỗi niềm tự hào sâu thẳm:
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trèn giấy điệp.
Ai về Bên kia sông ĐuốngThế giới Kinh Bắc mở ra trước mắt người đọc từ những ấn tương đầu tiên những sắc màu, ánh sáng tươi tắn đầu tiên để rồi cứ mở ra mãi một không gian Kinh Bắc theo lời mời gọi “Ai về Bên kia sông Đuống?” Đại từ phiếm chi “ai”, tạo ra độ ngân vang trong cảm xúc của tác giả. Hoàng Cầm gọi ai? mời ai? Gọi người đến hay nhắc trở về hay nhủ chính lòng mình đây? Những câu thơ thao thức, gióng giả một nỗi niềm, uẩn ức cứ vời vợi chảy trôi theo lời thơ, phong tục tập quán ngàn đời đẹp đẽ của quê hương hiện về thật sống động, vẻ đẹp cổ kính trầm mặc của không gian lễ hội, sự ân tình chất chứa trong hình ảnh “tấm the đen”, “mộng bình yên” gửi gắm trong cảnh vật thơ mộng, thấp thoáng, tất cả làm nên bản sắc văn hoá lâu đời của quê hương Kinh Bắc. Những câu thơ của Hoàng cầm như còn nguyên vẹn cái âm hưởng thanh bình, yên ả của nó. Người ta như cảm thấy mắt nhìn Hoàng Cầm muốn bao chiếm, ôm trọn không gian thân thương của quê hương yêu dấu, từ “trên” đến “trông” vào “giữa”, những địa danh của Kinh Bắc, núi Thiên Thai, chùa Bút Tháp, huyện Lang Tài cứ hiển hiện như đang ở trước mắt người đọc. Từ “tấm the đen”, Hoàng Cầm chất chứa, nén dồn bao yêu thuơng, ấp ủ từ những hình ảnh bình dị, Hoàng Cầm gửi gắm những ước vọng bình yên lớn lao, từ câu chuyện về Kinh Bắc, nhà thơ đưa người ta trở về chốn cũ, người xưa trong không gian đẹp đẽ, thanh bình:
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu?
Những nàng môi cắn chỉ quết trầuKhông gian, thế giới Kinh Bắc không chỉ đẹp trong nét vẽ cổ kính trầm mặc, mà còn sống động với hình ảnh đẹp đẽ của những con người hồn hậu, thân thương. Nhớ về Kinh Bắc, hình ảnh con người gợi dậy trong Hoàng cầm bao yêu thương trìu mến. Chỉ phác hoạ bằng vài nét, Hoàng cầm cũng giúp người ta hình dung đầy đủ về họ. Những thiếu nữ duyên dáng, những cụ già hồn hậu, những em bé ngây thơ, tinh nghịch. Một làn môi cắn chỉ, một mái tóc trắng phơ phơ, một hình ảnh sột soạt quần nâu,... cũng đủ để tưởng tượng về những con người không tên, không tuổi, lạ kì. Hoàng cầm đặc biệt dành nỗi nhớ niềm thương cho hình ảnh người con gái Kinh Bắc, những câu thơ viết về vẻ đẹp quyến rũ, hồn hậu của họ trở thành những lối đẹp nhất của bài thơ. Câu thơ bắt đầu bằng từ để hỏi “Có nhớ” đánh thức tình yêu, gọi dậy nỗi nhớ ám ảnh, thổn thức. Hình ảnh cô hàng xén răng đen với nụ cười tươi tắn, với khuôn mặt búp sen gọi ra một vẻ đẹp tươi tắn, sáng trong, đặc trưng cho vẻ đẹp con người Kinh Bắc. Vẻ đẹp con người hoà quyện với vẻ đẹp của đất trời thiên nhiên, nụ cười của cô gái như thu nhận ánh sáng của không gian.
Nhũng cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu.
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng.
Chợ Hồ, Chợ Sủi người đua chen
Bãi Trầm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đầu về đâu
Gửi bởi huyenson ngày 26/02/2010 21:57
Tôi thấy hình nhw bài thơ bị chép sai nhiều chỗ quá,chứ không chỉ sai một số từ, chẳng hạn đoạn:
"Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương..."
Ở một số trích đăng khác tôi lại thấy là:
"Đêm buông xuống dòng sông đuống
Ta mài lưỡi cuốc
Ta uốn lưỡi liềm
Ta vuốt cây nhọn
Ta giũa mác dài
Ta đã thành chiến thắng ngày mai
Lao xao bờ cây bụi chuối
Im lìm miếu đổ chùa nghiêng
Chập chờn đom đóm bay ngang
Hay tin lũ giặc kinh hoàng
Rùng rùng tiếng súng khua vang
Trong đêm khuya khoắt cung đàn tự do
Thuyền ai thấp thoáng ven bờ
Dọn cho ta hết những giờ thảm thương..."
Không biết thế nào là đúng, sai. Đề nghị Thi viện kiểm tra lại.
Gửi bởi DƯƠNG VƯƠNG ngày 07/03/2010 00:43
Bạn nào có bản chuẩn hơn cùng sửa lại cho tốt hơn đi các bạn
Gửi bởi Vanachi ngày 06/05/2010 02:43
Đoạn bạn huyenson chép ra quả thực tôi mới được đọc lần đầu. Còn bản đăng ở trên thì giống với bản trong SGK mọi người từng đọc. Đề nghị các bạn nói sai với khác thì nên dẫn nguồn ra chứ đừng nói chung chung thế rất khó kiểm chứng.
Gửi bởi lawyer ngày 01/12/2013 20:48
Tiếng em cắt cỏ trại tù
Căm căm gió rét mịt mù mưa bay
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:14
Sau mười câu thơ đầu thể hiện cái nhìn toàn cảnh bên kia sông Đuống từ bên này sông Đuống là đoạn thơ tiếp theo có ý nghĩa “chép tội giặc”. Trong những vần thơ chép tội giặc thì không những chỉ có nỗi xót đau căm giận mà còn có cả sự hồi tưởng về vẻ đẹp của quê hương Kinh Bắc để nói lên niềm yêu mến tự hào. Chính vì vậy trong đoạn thơ chép tội giặc có hai thế giới Kinh Bắc một Kinh Bắc bình yên trước đây và một Kinh Bắc khi giặc tới. Cả hai hình ảnh Kinh Bắc ấy đều thể hiện lòng yêu quê hương đất nước của nhà thơ.
Lòng yêu nước trước hết thể hiện niềm yêu mến tự hào trước con người và mảnh đất quê hương Kinh Bắc giàu truyền thống văn hoá.
Nhà thơ tự hào trước miền quê Kinh Bắc, một miền quê trù phú, một miền quê văn hoá.
Khi nhớ về quê hương ấn tượng sâu đậm đầu tiên là hương vị của lúa nếp thơm nồng. Hương nếp thơm là dấu hiệu về một miền quê nông nghiệp với đời sống vật chất ấm no. Kinh Bắc những ngày bình yên trước đây là mảnh đất trù phú với cảnh làm ăn đông vui tấp nập.
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chenĐây là chiếc nôi của văn hoá dân gian với những lễ hội đầu xuân nổi tiếng như hội Lim đây còn là quê hương của những làn điệu dân ca không chỉ phổ biến vùng đồng bằng Bắc Bộ mà còn nổi tiếng trong cả nước như hát quan họ, hát trống quân.
Bãi Trầm Chi người dăng tơ nghẽn lối
Kinh Bắc còn mang vẻ đẹp của miền quê văn hoá.
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trongChỉ bằng hai câu thơ với vài nét gợi mà Hoàng cầm đã nói rất đúng về tranh Đông Hồ từ đề tài đến chất liệu, đến tâm hồn dân tộc, nghệ thuật dân tộc trong tranh.
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Ai về bên kia sông ĐuốngKhuôn mặt búp sen gợi nhiều liên tưởng có gương mặt xinh xắn thanh tú. Có màu phớt hồng trẻ trung. Có hương thơm thanh quý, hàm răng đen mang vẻ đẹp truyền thống rất nền nã, rất dân tộc. Nụ cười như mùa thu toả nắng thì vừa bừng sáng rạng rỡ như lan toả niềm vui ra chung quanh nhưng vẫn mang vẻ đẹp dịu dàng kín đáo.
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng.
Quê hương ta từ ngày khủng khiếpBa chữ quê hương được nhắc lại lời thơ da diết nó vừa gợi về hoài niệm, gợi lên có nỗi đau trước mắt với sự đối lập tương phản. Cũng “quê hương ta” ấy mà giờ đây bị tàn phá đã rơi vào tình cảnh khủng khiếp. Những hình ảnh ngắn gọn cô đọng “ruộng khô”, “nhà cháy” nói lên sự tàn khốc của chiến tranh, thiêu huỷ tất cả trong giây lát. Hình ảnh vừa cụ thể vừa có tầm khái quát nó khắc hoạ tội ác giặc ở miền quê Kinh Bắc nhưng lại cũng có thể để khắc bia căm thù ở bất cứ nơi nào có quân xâm lược.
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Mẹ con đàn lợn âm dươngTác giả đã mượn cảnh trong tranh để nói cảnh thực ngoài đời. Mẹ con đàn lợn chia lìa hay bao tổ ấm gia đình chia lìa tan tác. Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã là thế mà tan tác về đâu hay là bao hạnh phúc lứa đôi đổ vỡ. Đâu chỉ là những bức tranh Đông Hồ bị thiêu cháy mà còn là cuộc sống của người dân bị huỷ diệt.
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Bên kia sống ĐuốngMẹ còm cõi lam lũ vất vả, mẹ già nua cần đi nghỉ ngơi thì vẫn phải tất bật lo toan với cuộc sống. Gánh hàng rong của mẹ có nhiều nhặn gì đâu: Dăm miếng cau, mấy lọ phẩm, vài thếp giấy. Gánh hàng rong càng nhẹ về hàng thì gánh nặng cuộc sống càng đè lên đôi vai gầy của mẹ. Những số tử phiếm chỉ nói lên sự ít ỏi: “Dăm, mấy, vài” gợi sự lam lũ, sự nghèo khó, mẹ phải tỉ mẩn chắt chiu từng xu. Vậy mà kẻ thù nào có buông tha chúng kéo đến chúng cướp đi tất cả:
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợnKẻ thù đến thật bất ngờ gây nên nỗi kinh hoàng, chúng hiện nguyên hình là lũ quỷ âm ti mang theo chết chóc gieo bao tai hoạ.
Khua giày đinh đạp gãy quán gày teo
Xì xồ cướp bóc Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu bang chiều mùa đông
Mẹ già nua / quỷ mắt xanh trừng trợn.Biện pháp nghệ thuật này không những tố cáo tội ác kẻ thù mà còn diễn tả nỗi đau thê thảm của những người dân vô tội. Khi nói lên tình cảm đau thương của mẹ và tội ác của kẻ thù những câu thơ cũng có sự quyện hoà giữa thực và ảo. Cái thực như bị nhoè đi bởi những dòng nước mắt: “Lá đa lác đác trước lều, vài ba vết máu loang chiều mùa đông”. Hình ảnh lá đa lác đác trước lều gọi liên tưởng đến số phận của mẹ, của bao sinh linh vô tội đang rụng rơi trước mũi súng, lưỡi gươm đầm máu của quân thù. Nỗi đau cua người dân vô tội và cũng là của chính tác giả, cứ như vết máu loang ra mãi thấm cả vào trời chiều mùa đông lạnh giá.
Giày đinh đạp gẫy / quán gày teo.
Cướp bóc / phiên chợ nghèo.
Có con cò trắng bay vùn vụtHình ảnh thơ thật gợi cảm có bóng mẹ bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ in lên nền trời chiều giá buốt, có hình ảnh cánh cò vút bay ngang qua dòng sông Đuống. Đây không phải là cánh cò bay lả bay la trong câu ca dao thời bình mà là cánh cò hốt hoảng trong thời chiến. Cánh cò bay về đâu, người mẹ đi về đâu khi tất cả đã hoang tàn đổ nát.
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạnCác em hồn nhiên ngây thơ như bầy chim non trong tổ ấm. Các em đâu biết lửa hái của tử thần đang treo lơ lửng ở trên đầu. Chúng chui gầm giường tránh đạn nhưng làm sao tránh nổi khi giặc bắn cả vào giấc mơ trẻ nhỏ:
Trong giấc thơ ngày tiếng súng dồn tựa sấmNghệ thuật đối lập những câu thơ trên lại một lần nữa khắc hoạ bằng tội ác của kẻ thù và cảnh tình thê thảm của những sinh linh vô tội. Từ nỗi đau thương uất hận câu thơ Hoàng Cầm vươn tới sự lên án tố cáo:
Ú ớ cơn thon thót giật mình
Bóng giặc giày vò những nét môi xinh
Đã có đất này chép tộiVề mặt nghệ thuật đoạn thơ chép tội giặc được triển khai trên sự đối lập tương phản giữa hình ảnh Kinh Bắc thanh bình trước đây và Kinh Bắc bị tàn phá khi giặc tới. Về nhịp điệu có sự đan xen giữa câu thơ ngắn và câu thơ dài. Những câu thơ ngắn loang loáng vun vút diễn tả sự tàn bạo thiêu huỷ trong chốc lát của chiến tranh. Những câu thơ ngắn không liền mạch đọc lên nghe như tiếng nấc uất nghẹn. Bên cạnh đó là những câu thơ dài buông xuống như lời than tiếc nuối, như dòng lệ khôn ngăn.
Chúng ta không biết nguôi hờn
Em đi trẩy hội non sôngNếu bài thơ mở đầu bằng những câu vùa xót xa vừa an ủi vỗ về: “Em ơi buồn làm chi thì kết thúc lại là hình ảnh ngày hội non sông, ngày chiến thắng. Niềm mơ ước, niềm hy vọng, niềm tin tưởng ấy đã đem đến vẻ đẹp cho câu thơ của Hoàng Cầm những hình ảnh thực mà cũng lung linh huyền ảo, hiện thực mà siêu thực.
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:16
Trong vườn thơ ca kháng chiến chống Pháp, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm được sáng tác tháng 4 năm 1948 nổi lên như một bông hoa thám sắc ngát hương. Bài thơ đã diễn tả được một cách khá thấm thía và cảm động tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương Kinh Bắc nối tiếng, quê hương nước Việt nói chung với những tình cảm yêu thương, tự hào về quê hương giàu đẹp, có nền văn hoá nghìn đời đáng yêu và niềm căm giận trước tội ác kẻ thù đã giày xéo quê hương một cách phũ phàng. Trong đó còn có những đoạn thơ cho ta thấy quê hương Kinh Bắc có một nền văn hoá dân gian độc đáo đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời nhà thơ cũng cho người đọc cảm nhận được hình ảnh quê hương tan tác điêu tàn khi quân giặc tràn về:
Bên kia sông ĐuốngSự trù phú tươi đẹp của quê hương được kết tinh ở một hình ảnh thật gợi cảm, nên thơ. Đó là “lúa nếp thơm nồng”. Cái hương vị đậm đà thanh khiết có sức lan toả và dễ thấm vào hồn người đọc ấy của lúa nếp đã gợi lên trong ký ức chúng ta biết bao hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, nơi có truyền thống trồng lúa nước từ ngàn đời nay. (Trong bài Đất nước, Nguyễn Đình Thi cũng đã mở đầu bằng hai câu thơ có cái hương lúa nếp rất gợi cảm đó: “Sáng mát trong như sáng năm xưa – Gió thổi mùa thu hương cốm mới” và Quang Dũng cũng viết: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”. Chế Lan Viên trong bài Tiếng hát con tàu đã có hai câu thơ về hương nếp rất tài hoa “Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch – Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”).
...................
Bây giờ tan tác về đâu
Ruộng ta khô Nhà ta cháyThế là chẳng những con người rơi vào cảnh ngộ tan tác chia lìa mà đến cả những bức tranh làng Hồ cũng cùng chung số phận:
...
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dươngCái tài của nhà thơ Hoàng Cầm là đã tạo được nhiều hình ảnh vừa thực vừa ảo rất thú vị. Ở đây, cảnh trong tranh và cảnh ngoài đời như hoà vào nhau thật khó mà phân biệt. Hai bức tranh Đông Hồ được miêu tả trong bốn câu thơ đã vẽ lên được cảnh tản cư đau lòng khi giặc ập đến. Phải chăng giặc giày xéo lên quê hương gây nên cảnh tan tác chia lìa cho con người; đồng thời cũng là giày xéo lên một nền văn hoá nghìn đời đáng yêu đáng quý của ta một cách phũ phàng?
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Ai về Đồng Tỉnh Huê Cầu.Như vậy, Kinh Bắc là quê hương của những con người đáng yêu đáng quý. Nhưng đáng yêu nhất, để thương để nhớ cho Hoàng cầm nhất vẫn là: những cô gái chăn tằm hái dâu, những cô hàng xén có vẻ đẹp dịu dàng kín đáo, đôn hậu mà rất tình tứ. Hoàng cầm đã dành những nét bút đẹp đẽ tài hoa nhất cho những cô gái này:
Để thương, để nhớ, để sầu lại đây.
Ai về Bên kia sông Đuống“Khuôn mặt búp sen” là khuôn mặt mang vẻ đẹp truyền thống dân tộc của những cô gái quê. Nó gợi cho ta những đường nét thanh tú xinh xắn với màu sắc phớt hồng và hương thơm thanh quý. Còn nụ cười “như mùa thu toả nắng” thì tươi và sáng như toả niềm vui ra xung quanh nhưng lại có vẻ đẹp dịu dàng kín đáo như cái nắng dịu mùa thu.
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Bên kia sông ĐuốngHình ảnh bà mẹ già “còm cõi mái đầu bạc phơ” với “gánh hàng rong bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút” cùng với “cánh cò trắng bay vùn vụt lướt ngang dòng sòng Đuống về đâu” gợi lên trong lòng ta biết bao cảm xúc xót thương. Đâu còn hình ảnh “Cánh cò bay lả bay la – Cánh cò bay lả rập rờn” hôm nào nữa; mà giờ chi còn là cánh cò hốt hoảng bay vụt vụt bơ vơ như chạy loạn “Bỏ nhà...”. Hình ảnh ấy hoà cùng hình ảnh yếu ớt bơ vơ của người mẹ già làm cho hình ảnh những nạn nhân xâm lược càng trở nên bi thương vô hạn.
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Trẻ em như búp trên cànhẤy thế mà khi giặc tràn về, các con đã bị bóng đen kẻ thù đe doạ cả những vành nôi, và trong cơn mơ cũng thon thót giật mình vì sợ hãi. Bởi cái chết luôn luôn rình rập, lởn vởn đâu đó. Là kẻ thù mới bây giờ rất đáng sợ. Chúng vừa thô bạo vừa có hình thù gớm ghiếc, kỳ quái. Chúng đến đâu là gieo rắc chết chóc đau thương đến đó:
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan
(Hồ Chí Minh)
Chợt lũ quỹ mắt xanh trừng trợnĐây là những hình ảnh thơ viết về tội ác của kẻ thù khá độc đáo. Mấy “Lá đa lác đác trước lều” cùng với “vài ba vết máu” làm “loang” đỏ cả “chiều mùa đông” cứ ám ảnh lay động không thôi tâm hồn ta. Cũng như hai câu thơ: “Bây giờ tan tác về đâu?” – Bây giờ đi đâu về đâu?” được lấy lại ở nhiều đoạn thơ như một điệp khúc cứ xoáy sâu vào lòng ta một nỗi đau nhức nhối. Đúng là đoạn thơ trên của Hoàng cầm xứng đáng là đoạn thơ “chép tội giặc” để mãi mãi chúng ta không được nguôi hờn, mỗi khi có giặc ngoại xâm.
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc, tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang đỏ chiều mùa đông
Dao loé giữa chợĐoạn thơ đã diên tả được một cách sinh động và chân thực những cuộc chiến đấu quyết sống chết với giặc diễn ra ở thôn xóm, giữa chợ, trên cánh đồng lúa chín bằng những nhịp thơ dồn dập sảng khoái, đầy khí thế.
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như đứng trên đống lửa
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:16
Đề bài: Nêu cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ sau:
Bên kia sông Đuốngtrong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm.
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?
Bên kia sông ĐuốngQua nét bút của Hoàng cầm, quê hương Kinh Bắc hiện lên thật đẹp trong truyền thống văn hoá đặc sắc. Nhưng đau xót là cái thế giới đẹp ấy lại bị vùi dập, tàn phá bởi lũ quỷ xâm lược.
................
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Quê hương ta lúa nếp thơm nồngChỉ bằng ba câu thơ mà Hoàng cầm đã tái hiện lại bức tranh quê hương có cả màu sắc, ánh sáng, có cả những hương vị quen thuộc. Một lời giới thiệu rất mộc mạc: “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng” – một nét vẽ bình dị, và quen thuộc của làng quê Việt Nam nhưng lại gợi dậy trong người đọc bao nhiêu ám ảnh.
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếpCâu thơ cất lên đau đớn, làm chuyển đổi mạnh cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi những ngày giặc đến xâm chiếm là những ngày “khủng khiếp” (như phần nào cho thấy sự khác biệt của hiện thực chiến tranh). Từng câu, từng chữ như gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thời là tiếng nói tố cáo, phê phán gay gắt chiến tranh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànChỉ bằng một câu thơ mà tội ác của kẻ thù hiện lên chồng chất, cùng với đó là niềm căm thù ngút trời về nỗi đau tột cùng của con người. Những câu thở than đầy máu và nước mắt.
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoangCâu thơ ngân lên đầy đau đớn, xót xa. Đâu rồi cái vẻ thanh bình, đâu rồi những nét trù phú tươi tắn? Giờ đây tất cả chỉ là một cảnh tượng hoang tàn, chia li, diết chóc. Không gian càng lúc càng trở nên sâu thẳm “kiệt cùng” nỗi đau càng lúc càng tột cùng. Và điều đặc biệt là ở chỗ tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về một cuộc sống chia li, hoang tàn vẫn được thể hiện rõ. Tác giả mượn hình ảnh những con vật vô tri, trong bức tranh Đông Hồ chia lìa, tan tác để nói về nỗi đau chia lìa của con người.
Mẹ con đàn lợn âm dương Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:17
Nếu Sông Lô của Văn Cao là một trường ca bằng nhạc về con sông miền quê Trung du thời chống Pháp thì Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm cũng được coi là trường ca bằng thơ về một con sông của miền quê Kinh Bắc. Viết tác phẩm này Hoàng Cầm muốn gửi gắm dồn trút tất cả cảm xúc mãnh liệt của mình. Đó vừa là niềm tự hào kiêu hãnh trước những vẻ đẹp của quê hương, vừa là nỗi xót xa căm giận trào sôi trước cảnh quê hương bị giặc tàn phá. Nhà thơ đã tái hiện lại chân thực sinh động bức tranh cuộc sống, thiên nhiên con người Kinh Bắc một thời máu lửa, một thời hoà bình. Đoạn thơ khép lại tác phẩm cho người đọc một hình ảnh đẹp về Kinh Bắc trong tương lai chiến thắng qua dự cảm đầy tin tưởng của Hoàng Cầm.
Vì được coi là một trường ca, cho nên Bên kia sông Đuống được tổ chức theo lối khúc thức gồm bốn chàng: dạo đầu, đau thương, vùng dậy và chiến thắng. Theo đó cảm xúc thơ có khi sâu lắng thiết tha những hoài niệm, có lúc cuộn trào sôi sục mạnh mẽ, lúc lại êm đềm lan toả. Sau khúc dạo đầu, Bên kia sông Đuống cuốn người đọc vào mạch cảm xúc căm giận trào sôi trước hiện thực quê hương Kinh Bắc tươi đẹp giàu có, bình yên chìm trong máu lửa để rồi bừng lên sức mạnh chiến đấu của những đoàn quân trở về giải phóng quê hương, chuẩn bị cho Kinh Bắc ca khúc khải hoàn. Thế nên, mở đầu đoạn thơ Hoàng Cầm mới viết:
“Bao giờ về Bên kia sông Đuống” - chữ “bao giờ” diễn tả thời gian trong tương lai, thòi gian trong tương lai, thời gian của mơ ước, của khát khao chứ không phải là thời gian của thực tại. Mặc dù được lặp lại đến lần thứ sáu với nhiều biến thể khác nhau nhưng ở đây, cụm từ “Bên kia sông Đuống” mới thật sự hàm chứa cái giọng của sự mong ngóng đến khắc khoải. Bởi vì bên kia sông Đuống là trở lại mái ấm, là tìm về mảnh đất thân thương máu thịt, nơi cất giữ mảnh hồn riêng của những con người Kinh Bắc. Và thế giới Kinh Bắc ấy hội tụ nơi em. Sự xuất hiện của từ “em” trong khổ thơ này một mặt tạo ra sự hồ ứng, nhất quán chặt chẽ trong cấu tứ hình tượng của toàn bài, một mặt gắn liền với lời động viên an ủi mở đầu thi phẩm:
Em ơi buồn làm chiVà lời hẹn ước nằm nhớ đang trở thành một thực hay chính lời thơ chứa đựng niềm tin của nhân vật trữ tình “anh” sẽ trở lại quê hương ngay khi thi sĩ đặt bút viết những dòng đầu tiên về Kinh Bắc ở cái thời điểm “giặc tràn lên đốt phá”. Đó là niềm tin lãng mạn mang tính cách mạng. Mặt khác, “em” chính là hình ảnh tiêu biểu hơn cả cho những vẻ đẹp Kinh Bắc. Dõi theo lời thơ, ta thấy “em” hiện ra với yếm thắm, “lụa hồng”, trang phục rực rỡ, với nụ cười “mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” trong không khí “trẩy hội non sông” tưng bừng của mùa xuân, mùa chiến thắng.
Anh đưa em về sông Đuống
Cười như mùa thu toả nắngNhà thơ đã khẳng định tài năng miêu tả theo lối chấm phá của mình, vẫn là tái hiện vẻ đẹp con người qua ánh sáng mùa thu tình tứ, lại có nét cười trong ánh sáng mùa xuân trẻ trung tươi tắn, căng tròn sức sống. Nếu không phải là một hồn thơ đặc biệt nhạy cảm với vẻ đẹp cuộc sống, con người thì không thể nắm bắt được những vẻ đẹp ấy và miêu tả một cách tinh tế như vậy.
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh
Gửi bởi tôn tiền tử ngày 22/01/2015 23:17
Nếu Quang Dũng để hồn mình lang thang nơi mây trời non nước xứ Đoài thì hồn thơ của Hoàng Cầm mãi đi về nương náu những mái đình, gốc đa, hội hè Kinh Bắc cổ kính ngàn đời. Dường như có hẳn một khoảng không gian riêng trong thơ Hoàng Cầm”một không gian Kinh Bắc, một thời gian Kinh Bắc”. Trên nền không gian ấy, cứ thấy “thấp thoáng một cô gái Kinh Bắc” thật gợi, thật thơ nên cũng rất say đắm quyến rũ lòng người.
Ai về Bên kia sông ĐuốngBên kia sông Đuống ra đời trong giây phút “xúc động hồn thơ của Hoàng Cầm. Bài thơ đã khắc hoạ sống động, tài hoa bức tranh Kinh Bắc cổ kính nên thơ giàu truyền thống trong hoài niệm, chứa chan tự hào tiếc nuối Kinh Bắc hiện ra với con sông Đuống “lấp lánh”, “cát trắng phẳng lì”, bãi hồ “biêng biếc” mía dâu với lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ “nét tươi trong” đậm đà bản sắc dân tộc cùng những con người bình dị ẩn chứa vẻ đẹp riêng. Đó là em bé “sột soạt quần nâu”, đó là những cụ già “phơ phơ tóc trắng”, những nàng “môi cắn chi quết trầu”. Không chỉ vậy, vẻ đẹp con người Kinh Bắc còn được tái hiện qua chân dung những cô thôn nữ.
Có nhớ từng gương mặt búp sen
Những cồ hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toà nắng
Ai về bên kia sông ĐuốngGiọng thơ chứa đựng nỗi niềm khắc khoải khôn nguôi của tác giả về quê hương, lời thơ có cả cái tâm thế ngóng vọng đến bồn chồn da diết. Ngay sau đó, chân dung những thôn nữ Kinh Bắc – được tái hiện bằng những chi tiết rất giàu tính thẩm mỹ với “khuôn mặt búp sen” và hàm “răng đen”. Cùng nụ cười “như mùa thu toả nắng”. Đây là những nét gọi tả hơn là miêu tả “khuôn mặt búp sen” gợi nhiều liên tưởng: đó là một khuôn mặt xinh xắn, có màu phớt hồng, có hương thơm thanh quý. Hình ảnh và ngôn ngữ tạo hình tinh tế, tài hoa nét dáng và hình riêng của những thôn nữ Kinh Bắc với chiếc khăn mỏ quạ bình dị của dân tộc. Và những hàm răng “nhưng nhức” hạt na chứa cái duyên thầm. Như thế, con người đang được miêu tả bằng những chi tiết rất ấn tượng mang màu sắc thẩm mĩ, giản dị đôn hậu chất phác mà không kém phần duyên dáng nữ tính.
Nét cuời đen nhánh sau tay áoTrong câu thơ của Lưu Trọng Lư, nắng là bối cảnh xuất hiện nụ cười của mẹ. Cái thứ nắng trong hoài niệm không âm u lanh lẽo mà ngược lại, rực rỡ ấm áp làm sáng lên nụ cười của mẹ. Còn ở câu thơ của Hoàng Cầm, nắng đồng hiện trong nụ cười, vẻ đẹp của nắng làm nên vẻ đẹp của thiếu nữ Kinh Bắc. Đây là lối tạo hình mang dấu ấn thi pháp riêng. Trong toàn bộ bài thơ, bất cứ vẻ đẹp nào của Kinh Bắc cũng được đồng hiện trong tương quan với ánh sáng, cùng ánh sáng, bằng ánh sáng. Từ vẻ đẹp của dòng sông Đuống “lấp lánh”, vẻ đẹp của tranh Đông Hồ “sáng bừng trên giấy điệp” đến vẻ đẹp của người mẹ Kinh Bắc “khuôn mặt bừng lên như dựng tráng” trong đêm đón nhận đoàn quân trở về giải phóng quê hương. Và sau này, đó là vẻ đẹp của người con gái Kinh Bắc “cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” trong khung cảnh thanh bình. Nụ cười của các thiếu nữ còn gợi liên tưởng đến câu ca:
Trong ánh trưa hè trước dậu thưa
Miệng cười như thể hoa ngâuCó điều trong mĩ cảm dân gian, nụ cười thôn nữ toả hương – thứ hương thầm kín đáo mà thanh cao. Còn thơ Hoàng Cầm coi đó là nét cười rạng rỡ, trong trẻo mà đượm chất “hiếu tình” – cái vẻ đẹp riêng của thôn nữ vùng Kinh Bắc. Cho nên ai đã từng một lần đến miền quê này, chứng kiến nụ cười con người nơi đây sẽ không thể không nhớ tới câu thơ Hoàng Cầm để cảm nhận rằng viết được câu thơ như thế quả thực phải là một cây bút tài hoa, phải là một hồn thơ tài hoa.
Chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen
Trang trong tổng số 2 trang (16 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối