Thơ đọc nhiều nhất
Thơ thích nhất
Thơ mới nhất
Tác giả cùng thời kỳ
Dịch giả nhiều bài nhất
Tạo ngày 11/10/2009 21:12 bởi
hongha83, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 29/10/2010 23:37 bởi
hongha83 Bùi Văn Dị 裴文異 (1833-1895) còn được gọi là Bùi Dị 裴異, tự Ân Niên 殷年, có các tên hiệu là Tốn Am 遜庵, Du Hiên 輶軒, Hải Nông 海農, Châu Giang 珠江. Ông quê làng Châu Cầu, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội (sau là phố Châu Cầu, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam). Họ Bùi ở Châu Cầu này vốn quê gốc ở xã Triều Đông, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) từ thời Lê Mạt mới chuyển xuống sinh cơ lập nghiệp ở Châu Cầu, đến đời thứ sáu thì phát khoa: Bùi Văn Dị và người em con ông chú ruột là Bùi Văn Quế đều đỗ Phó bảng khoa Ất Sửu năm Tự Đức thứ 18 (1865).
Bùi Văn Dị lần lượt được bổ nhiệm làm Tri huyện Lang Tài, Việt Yên, Yên Dung (tỉnh Bắc Ninh), rồi Án sát Ninh Bình, sau được bổ sung vào nội các. 1876 được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Cuối 1878 lại được sung vào nội các, được cử vào duyệt quyển thi hội, thi đình. 1981 làm đại thần quản lý Nha Thương bạc. Khi quân Pháp mở rộng đánh Bắc Kỳ, ông dâng sớ quyết đánh và được cử làm khâm sai phó kinh lược sứ Bắc Kỳ. Ông đã trực tiếp chỉ huy trận đánh ngày 13-3-1883 chặn quân Pháp lấn ra ngoại vi Hà Nội. Tiếp đó, ông được cử làm Tham tán quân thứ Bắc Ninh. Việc nhà Nguyễn ký hàng ước ngày 25-8-1883 khiến ông suy sụp tinh thần đến phát bệnh; ông từ chối chức Tổng đốc Ninh Thái (gần như cùng lúc Nguyễn Khuyến từ chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên) và đi ở ẩn tại Thanh Hoá. Đầu năm 1884 ông lại được triệu về triều làm giảng quan chuyên giảng sách cho vua Kiến Phúc rồi vua Hàm Nghi. Năm 1885 ông bị ốm phải đi dưỡng bệnh tại Thanh Hoá.
Đến cuối năm 1887, lại được gọi về triều làm Phụ chính đại thần, trong dịp này được xét đặc cách nhận học vị tiến sĩ khoa Ất Sửu (1865). Năm 1890, ông thôi các chức Thượng thư bộ Lại và Phụ chính đại thần, chỉ giữ chức Phụ đạo đại thần kiêm Phó tổng tài Quốc sử quán. Ông đảm nhận việc tổng duyệt bộ sách gồm 300 bài thơ vịnh sử của vua Tự Đức, công việc biên tập hoàn thành thì Bùi Văn Dị cũng mất ngay khi còn tại chức ở Quốc sử quán. Thời gian 29 năm làm quan (1866-1895) của Bùi Văn Dị trải 7 đời vua Tự Đức, Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thành Thái.
Thơ văn của ông được tập hợp trong các cuốn, đều là các tập thơ văn chữ Hán:
- Vạn lý hành ngâm 萬里行吟
- Du Hiên thi thảo 輶軒詩草
- Tốn Am thi sao 遜庵詩抄
- Du Hiên tùng bút 輶軒叢筆
- Trĩ chu thù xướng tập 雉舟酬唱集
Bùi Văn Dị 裴文異 (1833-1895) còn được gọi là Bùi Dị 裴異, tự Ân Niên 殷年, có các tên hiệu là Tốn Am 遜庵, Du Hiên 輶軒, Hải Nông 海農, Châu Giang 珠江. Ông quê làng Châu Cầu, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội (sau là phố Châu Cầu, thị xã Phủ Lý, tỉnh Hà Nam). Họ Bùi ở Châu Cầu này vốn quê gốc ở xã Triều Đông, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) từ thời Lê Mạt mới chuyển xuống sinh cơ lập nghiệp ở Châu Cầu, đến đời thứ sáu thì phát khoa: Bùi Văn Dị và người em con ông chú ruột là Bùi Văn Quế đều đỗ Phó bảng khoa Ất Sửu năm Tự Đức thứ 18 (1865).
Bùi Văn Dị lần lượt được bổ nhiệm làm Tri huyện Lang Tài, Việt Yên, Yên Dung (tỉnh Bắc Ninh), rồi Án sát Ninh Bình, sau được bổ sung vào nội các. 1876 được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Cuối 1878 lại được sung vào…