題曹操之墓

淼淼漳河蔚莽蒼,
樓臺歌吹總荒涼。
三分事業餘黃土,
七十疑墳半夕陽。
野荳飄零才子淚,
岸花蕭颯美人香。
祗今片瓦餘銅雀,
撥墨淋漓寫恨長。

 

Đề Tào Tháo chi mộ

Miểu miểu Chương hà uất mãng thương,
Lâu đài ca xuý, tổng hoang lương.
Tam phân sự nghiệp, dư hoàng thổ,
Thất thập nghi phần, bán tịch dương.
Dã đậu phiêu linh, tài tử lệ,
Ngạn hoa tiêu táp mỹ nhân hương.
Chi kim phiến ngoã, dư Đồng Tước,
Bát mặc lâm ly, tả hận trường.

 

Dịch nghĩa

Thăm thẳm sông Chương hà, cỏ tốt xanh um
Chỗ lâu đài là nơi hát múa của Nguỵ Vũ để đến nay đều là chỗ hoang lương
Sự nghiệp nước tam phân, còn trơ nắm đất vàng
Bảy mươi ngôi mộ của ông, nay buổi chiều chỉ thấy ánh mặt trởi soi
Cây đậu ngoài đồng xơ xác, người tài tử trông thất chảy nước mắt
Mùi thơm hoa trên ngàn phất phơ, sực nhớ đến hương mỹ nhân thời ấy
Đến nay chỉ còn thấy những mảnh ngói vỡ của đền Đồng Tước
Người ta lấy ngói ấy làm nghiên mài mực để tả nỗi hận lòng dài dằng dặc


Vua Tự Đức đã phê vào 2 câu tam, tứ: “Trạng nguyên tể tướng dĩ an bài liễu” (Tài trạng nguyên tể tướng đã định sẵn rồi) cho thấy tài hoa của tác giả.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (4 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Lê Thế Vinh

Thăm thẳm sông Chương cỏ rợp đường,
Lâu đài ca múa thảy vu hoang.
Tam phân sự nghiệp trơ màu đất,
Bảy chục nghi phần dãi bóng dương.
Xơ xác đậu đồng tài tử lệ,
Úa hoa tàn nội mỹ nhân hương.
Còn trơ mảnh ngói đền Đồng Tước,
Mài mực lâm li biết hận trường.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

về lời khen Bùi Văn Dị của vua Tự Đức!

Trong sách của Lãng Nhân có đoạn:

Vua Tự Đức phê vào câu tam, câu tứ: 狀元宰相已安排了, Trạng nguyên Tể tướng dĩ an bài liễu! (Tài Trạng nguyên Tể tướng đã định sẵn rồi!)

Căn cứ vào trình tự trong sách, theo tôi, câu này vua Tự Đức khen Bùi Văn Dị là có ý nhằm vào câu tam, câu tứ của bài "Đề Hoàng Cúc".


Nguồn: Lãng Nhân, Giai thoại làng Nho, NXB VHTT, 1999.
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

về nguyên bản chữ Hán của bài thơ!

Tiêu Đồng Vĩnh Học xin cung cấp nguyên văn chữ Hán bài thơ "Đề Tào Tháo chi mộ" của Bùi Ân Niên (tức Bùi Văn Dị):

淼淼漳河蔚莽蒼,
樓臺歌吹總荒涼。
三分事業餘黃土,
七十疑墳半夕陽。
野荳飄零才子淚,
岸花蕭颯美人香。
祗今片瓦餘銅雀,
撥墨淋漓寫恨長。

Chú ý rằng:

a. Chữ Đậu 荳 ở dòng 5, sách của Lãng Nhân chép là 苴 (chữ Tư);
b. Chữ Tiêu 蕭 ở dòng 6, sách của Lãng Nhân chép là 蕃 (chữ Phiền);

Tôi ngờ do lỗi ấn loát. Vì vậy trong bản chữ Hán trên, tôi đã căn cứ vào phần dịch nghĩa mà sửa lại để bạn đọc tham khảo.


Nguồn: Lãng Nhân, Giai thoại làng Nho, NXB VHTT, 1999.
Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Thăm thẳm Chương hà, xanh cỏ lan,
Lâu đài Nguỵ Vũ để hoang tàn.
Tam phân sự nghiệp, trơ gò đất
Bảy chục mồ hoang, dãi nắng vàng.
Xơ xác đậu đồng, tài tử khóc,
Phất phơ hoa núi, mỹ nhân than.
Còn trơ mảnh vỡ đền Đồng Tước,
Ngói ấy làm nghiên, hận muộn màng.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời