晴其二

啼烏爭引子,
鳴鶴不歸林。
下食遭泥去,
高飛恨久陰。
雨聲沖塞盡,
日氣射江深。
回首周南客,
驅馳魏闕心。

 

Tình kỳ 2

Đề ô tranh dẫn tử,
Minh hạc bất quy lâm.
Há thực tao nê khứ,
Cao phi hận cửu âm.
Vũ thanh xung tái tận,
Nhật khí xạ giang thâm.
Hồi thủ chu nam khách,
Khu trì Nguỵ khuyết tâm.

 

Dịch nghĩa

Quạ réo vội dắt con theo,
Hạc kêu chẳng về rừng.
Đáp xuống để kiếm ăn nhưng gặp bùn lại đi,
Bay cao thì giận cứ u ám mãi.
Tiếng mưa vang ra cả vùng biên giới,
Khí trời đâm sâu xuống sông.
Kẻ lang bạt khắp vùng nam này quay đầu lại nhìn,
Tuy vất vưởng nhưng lòng luôn nghĩ đến vận nước.


(Năm 767)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Quạ réo dẫn con đi,
Hạc kêu, rừng chẳng về.
Xuống ăn, gặp bùn bỏ,
Bay cao tối ủ ê.
Lòng sông khí trời thấu,
Tới biên, tiếng mưa nghe.
Khách vùng nam quay cổ,
Lóng ngóng lòng vẫn ghi.

tửu tận tình do tại
12.00
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Quạ kêu vội dắt con theo,
Chẳng về rừng vội hạc kêu gọi đàn.
Kiếm ăn đáp gặp bùn tràn,
Bay cao thì giận trời càng âm u.
Vang vùng biên giới mưa thu,
Khí trời u ám mây mù xuống sông.
Vùng nam lữ khách ngoái trông,
Nước nhà luôn nghĩ dù lòng xa quê.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Minh

Quạ dẫn con tiếng kêu réo rắt
Hạc đã kêu tất chẳng về rừng
Đáp ăn lại gặp toàn bùn
Bay cao lại giận trời âm u hoài
Tiếng mưa vang dài theo biên giới
Khí trời đâm sâu dưới dòng sông
Khách đi nam quay đầu trông
Triều đình cao vợi hết lòng tin theo.

Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên FacebookTrả lời