南極

南極青山眾,
西江白谷分。
古城疏落木,
荒戍密寒雲。
歲月蛇常見,
風飆虎或聞。
近身皆鳥道,
殊俗自人群。
睥睨登哀柝,
矛弧照夕曛。
亂離多醉尉,
愁殺李將軍。

 

Nam Cực

Nam Cực thanh sơn chúng,
Tây giang bạch cốc phân.
Cổ thành sơ lạc mộc,
Hoang thú mật hàn vân.
Tuế nguyệt xà thường kiến,
Phong tiêu hổ hoặc văn.
Cận thân giai điểu đạo,
Thù tục tự nhân quần.
Bễ nghễ đăng ai thác,
Mâu hồ chiếu tịch huân.
Loạn ly đa tuý uý,
Sầu sát Lý tướng quân.

 

Dịch nghĩa

Ở vùng chót của miền nam có lắm núi xanh,
Sông tây chia cắt hang trắng.
Tại thành cổ, lá cây rụng lác đác,
Nơi đồn hoang mây lạnh phủ dầy.
Quanh năm tháng thường thấy rắn bò,
Qua cơn gió thoảng như nghe tiếng hổ gầm.
Bên cạnh mình toàn là con đường cheo leo,
Tục lệ có khác nhau vì loài người sống tụ lại một chỗ.
Mắt hau háu trông chừng khi lên chòi gõ mõ canh,
Mâu với dáo sáng choang trong ánh nắng chiều tà.
Đời loạn nên nhiều viên đội say rượu trong quân,
Tướng Lý Quảng cũng thấy buồn muốn chết.


(Năm 766)

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (2 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Phan Ngọc

Nam Cực núi xanh lắm
Thung lũng phía tây sông
Cây héo bên thành cổ
Mây lạnh che mịt mùng
Năm tháng quen nhìn rắn
Gió gào hổ gầm vang
Gần ta đường treo lượn
Tục lạ người khác phương
Lên thành mõ buồn nổi
Cờ ánh bóng tà dương
Loạn ly, uý say hỏi
Khiến Lý Quảng buồn thương


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Khi bạn so găng với cuộc đời, cuộc đời luôn luôn thắng (Andrew Matthews)
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Phạm Doanh

Cuối vùng nam lắm núi xanh,
Sông tây, hang trắng chia thành hai nơi.
Bên thành cổ lá cây rơi,
Đồn vắng sao lắm mây trời lạnh căm.
Thường thấy rắn rít quanh năm,
Theo làn gió thoảng, hổ gầm đâu đây.
Cạnh mình, đường vắt trên mây,
Tục khác là bởi người quây quần cùng.
Mõ canh buồn, mắt canh chừng,
Mâu với dáo cứ sáng trưng cuối ngày.
Thời loạn nên lắm quan say,
Khiến cho tướng Lý cũng lây nỗi buồn.

tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời