Dưới đây là các bài dịch của Đằng. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 19 trang (186 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 10 (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Điếu thước hai, bằng trúc đốm bông,
Vũ Tiền trà tỏa đượm hương nồng.
Người qua kẻ lại không thèm hỏi,
Dựa cửa thuyền đúng gái giận chồng.

Ảnh đại diện

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 08 (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Giữa lòng sông mọc núi Kê Lung
Sóng nước mênh mang khói mịt mùng
Hẹn với nhà đông thuyền mái sẵn
Gác Thiên phi đến thắp hương cùng

Ảnh đại diện

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 07 (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Sông dài khói sóng nước mông mênh
Dăm chiếc du thuyền lướt bóng đêm
Trăng vắng, đèn không, nhìn chẳng thấy
Tiếng tì nghe vẳng đáy sông lên

Ảnh đại diện

Thương Ngô Trúc chi ca kỳ 06 (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Tiếng đùng pháo trúc khói lưu hoàng
Kinh động hàng chim vút bãi hoang
Ngóng vọng phương trời xa diệu vợi
Thương Ngô hướng bắc hẳn Hành Dương

Ảnh đại diện

Đồ trung ngẫu hứng (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Chân núi thông cao, những dãy mồ
Ngổn ngang gò đống, thảy người xưa
Tự do tự tại, chết không biết
Hoa nở hoa tàn, xuân chẳng lo
Phục lạp cháu con uổng rượu tưới
Giàu sang thế cuộc thoảng mây đưa
Trăm năm rốt ráo đều như thế
Ngoảnh lại mênh mang áng bụi mờ

Ảnh đại diện

Tổ Sơn đạo trung (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Rừng phong thu lá loạn bay
Cát như mưa đổ bụi đầy chinh nhân
Cỏ khô xơ xác dặm trường
Bốn bề hiu hắt tà dương ngút ngàn
Lưỡng Hà chinh chiến tràn lan
Đường vòng hun hút muôn vàn nhớ quê
Tóc phơ bụi đỏ đi về
Trời chiều lên núi buồn tê tái buồn

Ảnh đại diện

Chu Lang mộ (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Đốt sạch quân Tào trăm vạn binh
Trượng phu đủ thỏa chí bình sinh
Đồng niên bạn rể cùng Tôn Sách
Một thuở tri âm có Khổng Minh
Ngói vụn cung Ngô tàn nghiệp đế
Gai tràn mộ cổ nức hùng danh
Hai Kiều hương cốt vùi đâu mất
Mắt thấy Đồng đài đã nửa nghiêng

Ảnh đại diện

An Huy đạo trung (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Quạ kêu quác quác rộn sương mai,
Nam bắc Từ Châu rõ mặt ngày.
Ruộng tuyết một hàng xanh sắc lúa,
Núi tùng bốn phía trắng màu mây.
Mịt mù xứ sở muôn xa biệt,
Lấm láp công danh áng bụi bay.
Cùng trỏ hoa mai tin báo hiệu,
Xuân đâu đến với khách quê người.

Ảnh đại diện

Từ Châu đê thượng vọng (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Một sông nam bắc trước phân tranh
Dải đất Từ Châu vốn nổi danh
"Hí mã" đài xưa tràn cỏ mọc
"Đoạn xà" đầm lớn ngập mây giăng
Một thành người vật: kiến xăng xái
Bốn ngả thuyền xe: bèo bập bình
Trông xuống bụi hồng bay lẽo đẽo
Sớm chiều trong đó bước loanh quanh

Ảnh đại diện

Nhị Sơ cố lý (Nguyễn Du): Bản dịch của Đặng Thế Kiệt

Trên đời lắm kẻ chết vì danh
Ai kẻ quay đầu ngẫm lấy mình
Cùng lúc quan thôi, thân được trọn
Nghìn năm việc cũ, đá chưa nghiêng
Hội xuân luống có người thân họp
Ruộng tặng không dành con cháu canh
Tội nghiệp quan già Tiêu Thái Phó
Thân tàn mong một tiếng đời than

Trang trong tổng số 19 trang (186 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [7] [8] [9] [10] [11] [12] [13] ... ›Trang sau »Trang cuối