Trang trong tổng số 10 trang (96 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi U cốc khách ngày 13/05/2010 01:51
Trong câu cuối, nguyên văn là "mang - 尨 " (chó dữ), không phải là "long - 龍". Mong Ban quản trị xem lại.
Gửi bởi U cốc khách ngày 03/04/2010 05:43
Về bài thứ nhất, tôi đã đọc được nguyên văn chữ Hán ở diễn đàn Viện Việt học, nay xin copy lại:
絕 命 詩]
汗 馬 難 堪 為 國 仇
只 因 兵 敗 致 身 休
英 雄 莫 把 贏 偷 論
宇 宙 長 看 節 義 留
無 怖 以 驚 胡 虜 魄
不 降 甘 斷 將 君 頭
當 年 萩 水 波 流 血
龍 島 秋 風 起 暮 愁
阮 有 勳
Lãng Nhân, Giai thoại làng nho, tr. 79-80.
Nhất Tâm, Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), phụ hai cụ thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa - Nguyễn Hữu Huân, tủ sách Những cánh phượng, [Saigon:] Tân Việt, 65 tr.; tr. 64-65: "gian quan" thay "nan kham"; phiên "贏偷" ra "dinh du"; "lưu ba huyết" thay cho "ba lưu huyết".
[Tuyệt mệnh thi]
Hãn mã nan kham vị quốc cừu,
Chỉ nhân binh bại trí thân hưu.
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
Vô bố dĩ kinh Hồ Lỗ phách,
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
Đương niên Tho Thủy ba lưu huyết,
Long Đảo thu phong khởi mộ sầu.
Nguyễn Hữu Huân (1816-1875)
Ruổi dong vó ngựa trả thù chung,
Binh bại cho nên mạng phải cùng.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ,
Hơn thua sá kể với anh hùng!
Nổi xung mất vía quân Hồ Lỗ,
Quyết thác không hàng, rạng núi sông.
Tho Thủy ngày rày pha máu đỏ,
Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong.
Phan Bội Châu dịch, tr. 80.
Bâng khuâng thù nước mỏn hơi câu,
Bại trận nên chi phận dãi dầu.
Tuấn kiệt đâu màng cơn được mất,
Trung trinh nào sợ bước lờ lu.
Rơi đầu chẳng chịu hàng quân giặc,
Lớm ật làm cho rúng lũ thù.
Sông Mỹ năm xưa tràn giọt máu,
Cồn Rồng đêm tối gió buồn thu.
Diệp Văn Kỳ dịch (trong Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), phụ hai cụ thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa - Nguyễn Hữu Huân, tr. 64).
Mồ hôi ngựa nước thù khó nổi,
Nhân thua binh đến nỗi mình không.
/Hơn thua chớ luận anh hùng,
Dài xem tiết nghĩa lưu trong cõi bờ.
Lòng chả sợ hải hơ phách giặc,
Đầu tướng quân đành chặt không hàng.
Sông Tho nay giọt máu tràn,
Chiều chu gió thổi sầu lan cồn Rồng.
Thượng Tân Thị dịch (trong Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), phụ hai cụ thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa - Nguyễn Hữu Huân, tr. 64-65).
Ngựa đẫm mồ hôi báo quốc cừu,
Binh tàn, thân chết, xiết ưu tư.
Miễn còn tiết nghĩa trong trời đất,
Đừng nghĩ anh hùng chuyện được thua.
Tai giặc hoảng nghe lời khẳng khái,
Đầu rơi ông tướng chẳng hàng đâu.
Năm xưa, sông Mỹ tuôn dòng máu,
Long Đảo chiều thu nổi gió sầu.
Nàng Út dịch (trong Huỳnh Mẫn Đạt (1807-1883), phụ hai cụ thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa - Nguyễn Hữu Huân, tr. 65).
Gửi bởi U cốc khách ngày 03/04/2010 05:26
Việc dịch thơ Đường luật và luật thơ Đường, tôi thấy nên tham khảo thêm trong diễn đàn để sao cho chuẩn. :D
U Cốc Khách
Gửi bởi U cốc khách ngày 02/04/2010 19:11
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi U cốc khách vào 03/04/2010 00:36
Tôi thấy bạn suy diễn không đúng:
1. Địa danh Tây An đó, thời Đường gọi là Trường An, kinh đô của nước Đại Đường.
2. An Tây là 1 trong 4 vùng biên viễn có sự thống trị của nhà Đường (nước ta nằm trong vùng trấn hạt của An Nam đô hộ phủ)
3. Dương Quan là quan ải nằm trên con đường tơ lụa nối thương mại của nước Đại Đường (phương Đông) với các nước phương Tây.
4. Cửa thành người ta không gọi là "quan" mà là "môn": Đông môn, Tây môn, Đức Thắng môn.... chữ "Quan" có 1 nghĩa là: nơi hiểm yếu bố trí binh lính trấn giữ thời cổ đại, ví dụ: quan ải, Gia Dụ quan.... (bạn có thể tra tự điển)
5. Bản dịch của bạn, câu cuối không phù hợp luật thơ Đường. Nay, trên nền bản dịch của bạn, tôi xin dịch nôm na như sau:
Đưa anh Hai Nguyên đi sứ An Tây
Sáng mưa thành Vị bụi thôi bay,
Nhà khách liễu xanh lá mới thay.
Này ông! Ta cạn thêm ly nữa,
Bạn nhậu bói đâu ở mạn Tây.
Kính.
U Cốc Khách
Gửi bởi U cốc khách ngày 23/12/2009 17:48
So lần tơ phím dạo đàn Tần,
Ai oán giọng Tần dậy mấy âm.
Tựa thấu lòng hoa, chim cất tiếng,
Như hay vóc liễu, gió mùa xuân.
Chốn nao gác quạnh mong trăng sáng?
Ai kẻ đêm trường lặng bóng câm?
Nỗi hận biệt li thêm chất ngất,
Giang Nam, thành Lạc những xa xăm.
Gửi bởi U cốc khách ngày 08/08/2009 04:11
Chữ Khoa là bộ Hoà + chữ Đấu (đẩu)
chữ Liệu là bộ Mễ + chữ Đấu (đẩu)
Mong admin xem lại 1 lần nữa. Cẩn bạch!
Gửi bởi U cốc khách ngày 07/08/2009 00:04
Trong phần phiên âm, tại hạ thấy câu thứ 3 được viết là: "Trúc trượng mang hài khinh thắng tửu", phiên âm sai từ chữ "mã" thành chữ "Tửu".
Câu đầu khổ thứ 2 cũng phiên chữ 料 (liệu) thành chữ "đẩu". Tôi chưa xem lại bản gốc nhưng chỗ đó ắt là có nhầm lẫn.
Nay kính bạch với admin!
Gửi bởi U cốc khách ngày 21/04/2009 21:52
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi U cốc khách vào 22/04/2009 19:14
Âu Dương Quýnh – Ty Phán quan Tiết độ sứ quân Vũ Đức soạn
Chuốt ngọc chạm châu, muốn khéo léo khác xa tạo hoá; Trồng hoa tỉa lá, mong xinh tươi hơn cả màu xuân. Cái gọi là, rót rượu Hà Lễ, ắt phải say như lòng Mục Vương; Ca khúc Vân Dao, ắt phải thanh tựa lời Vương Mẫu. Danh lừng “Tuyết trắng”, lời lời đã hợp giọng loan ca; Tiếng át mây bay, chữ chữ hài hoà âm phượng luật. Câu “Dương liễu”, “Đại đê” truyền từ Nhạc phủ; Thiên “Phù dung”, “Khúc chử” tạo bởi danh gia. Đâu phải, cửa nọ tranh hơn, giắt trâm mồi tân khách ba nghìn; Tiệc kia so của, bày cây báu Thạch, Vương mấy chục. Hẳn có, công tử trên chiếu lụa, giai nhân chốn màn là, dâng hoa tiên lũ lượt, dệt văn gấm vóc; Giơ ngón ngọc mảnh mai, gõ phách đàn hương. Chẳng có lời từ cao nhã, sao nâng dáng vẻ yêu kiều. Từ thơ cung thể Nam triều, tới khúc xướng ca Bắc Lý. Sao cho rằng có lời mà chẳng hay, hoặc gán nỗi tuy đẹp mà không thật. Từ Đường đã có, trong chốn đô thành, xuân phong lối ngát nhà nhà, mê mải đi tìm Tây Tử; Dạ nguyệt lầu son chốn chốn; đinh ninh đã nhốt Thường Nga. Ở triều Minh Hoàng, có Lý Thái Bạch làm từ ứng chế “Thanh bình lạc” bốn bài, Ôn Phi Khanh trước đây lại có “Kim Thuyên tập”, tác giả đương thời, chẳng hổ với tiền nhân. Nay quan Vệ uý Thiếu Khanh tự Hoằng Cơ, góp chim trả bãi bồi, tự cho khác loài cầm điểu; Dệt sợi tơ dưới suối, riêng mình công sức thoi đưa. Tụ tập chúng tân, hồi lâu bàn luận. Nhân thu thập năm trăm bài khúc tử từ của thi khách gần đây, chia làm mười quyển. Quýnh vụng về dự chốn tri âm, luống thẹn nhận lời đề sách, đành làm bài bạt mấy câu. Trước, người Sở có khúc ca “Dương xuân”, tiếng là tuyệt xướng, liền đặt tên tập này là “Hoa gian”. Sau dùng cho kẻ anh triết ở Tây viên, cưỡi xe tới dự cuộc vui; Người giai nhân nơi Nam quốc, ngừng hát mãi bài Liên khúc.
Viết lời tựa vào mùa hạ, tháng 4, năm Quảng Chính thứ 3 nhà Đại Thục.
Gửi bởi U cốc khách ngày 13/04/2009 21:53
Trong bài tựa của Lý Thanh Chiếu, có chỗ "sổ khuyết", Nguyễn Chí Viễn dịch là "còn thiếu". Theo tôi có sự nhầm lẫn. "khuyết" ở đây phải hiểu là "phần", hoặc "đoạn", hoặc "khổ" trong 1 bài từ.
Ý của nữ sĩ họ Lý là, mượn câu cuối trong bài "Điệp luyến hoa" của ông Âu Dương để làm thành mấy khổ từ theo điệu "Lâm giang tiên".
Gửi bởi U cốc khách ngày 12/04/2009 00:40
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi U cốc khách vào 13/04/2009 17:41
Xa ngắm Trung Nguyên,
Bao thành quách,
Khói mù man mác.
Nhớ khi xưa,
Hoa giăng liễu rủ,
Mấy tầng lầu gác.
Vạn Tuế non kia phô vẻ ngọc,
Bồng Hồ điện nọ vang lời nhạc.
Thế mà nay,
Vó sắt nát giang sơn,
Tung bụi cát.
Dân đâu cả?
Khe vùi xác!
Quân đâu cả?
Chôn trận mạc.
Vẫn nước xưa non cũ,
Xóm làng tan tác.
Mong lúc trỏ cờ huy tướng sĩ?
Một roi đánh thẳng qua Hà Lạc!
Lại quay về,
Đến chốn Hán Dương chơi,
Cưỡi hoàng hạc.
Trang trong tổng số 10 trang (96 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [6] [7] [8] [9] [10] ›Trang sau »Trang cuối