Thơ » Trung Quốc » Ngũ đại » Âu Dương Quýnh
Đăng bởi U cốc khách vào 21/04/2009 21:52, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 22/04/2009 10:16
武德軍節度判官司歐陽炯撰
鏤玉雕瓊,擬化工而迥巧;裁花剪葉,奪春艷以爭鮮。是以唱雲謠則金母詞清﹔挹霞醴則穆王心醉。名高《白雪》,聲聲而自合鸞歌;響遏行雲,字字而偏諧鳳律。《楊柳》《大堤》之句,樂府相傳;《芙蓉》《曲渚》之篇,豪家自制。莫不爭高門下,三千玳瑁之簪;競富尊前,數十珊瑚之樹。則有綺筵公子,繡幌佳人。遞葉葉之花箋,文抽麗錦;舉纖纖之玉指,拍按香檀。不無清絕之詞,用助嬌嬈之態。自南朝之宮體,扇北裏之倡風。何止言之不文,所謂秀而不實。有唐已降,率土之濱。家家之香徑春風,寧尋越艷;處處之紅樓夜月,自鎖嫦娥。在明皇朝,則有李太白之應制《清平樂》詞四首,近代溫飛卿復有《金筌集》,邇來作者,無愧前人。今衛尉少卿字弘基,以拾翠洲邊,自得羽毛之異;織綃泉底,獨殊機杼之功。廣會眾賓,時延佳論。因集近來詩客曲子詞五百首,分為十卷。以炯粗預知音,辱請命題,仍為敘引。昔郢人有歌《陽春》者,號為絕唱,乃命之為《花間集》。庶使西園英哲,用資羽蓋之歡;南國嬋娟,休唱蓮舟之引。
時大蜀廣政三年夏四月日敘。
Vũ Đức quân Tiết độ Phán quan ty Âu Dương Quýnh soạn
Lũ ngọc điêu quỳnh, nghĩ Hoá công nhi quýnh xảo; Tài hoa tiễn diệp, đoạt xuân diễm dĩ tranh tiên. Thị dĩ xướng “Vân dao” tắc Kim Mẫu từ thanh, ấp Hà lễ tắc Mục Vương tâm tuý. Danh cao “Bạch tuyết”, thanh thanh nhi tự hợp loan ca; Hưởng át hành vân, tự tự nhi thiên hài phượng luật. “Dương liễu”, “Đại đê” chi cú, nhạc phủ tương truyền; “Phù dung”, “Khúc chử” chi thiên, hào gia tự chế. Mạc bất tranh cao môn hạ, tam thiên đại mội chi trâm; Cạnh phú tôn tiền, sổ thập san hô chi thụ. Tắc hữu ỷ diên công tử, tú hoảng giai nhân. Đệ diệp diệp chi hoa tiên, văn trừu lệ cẩm; Cử tiêm tiêm chi ngọc chỉ, phách án hương đàn. Bất vô thanh tuyệt chi từ, dụng trợ kiều nhiêu chi thái. Tự Nam Triều chi cung thể, phiến Bắc Lý chi xướng phong. Hà chỉ ngôn chi bất văn, sở vị tú nhi bất thực. Hữu Đường dĩ giáng, suất thổ chi tân. Gia gia chi hương kính xuân phong, ninh tầm Việt diễm; Xứ xứ chi hồng lâu dạ nguyệt, tự toả Thường Nga. Tại Minh Hoàng triều, tắc hữu Lý Thái Bạch chi ứng chế “Thanh bình nhạc” từ tứ thủ, cận đại Ôn Phi Khanh phục hữu “Kim Thuyên tập”, nhĩ lai tác giả, vô quý tiền nhân. Kim Vệ uý Thiếu khanh tự Hoằng Cơ, dĩ thập thuý châu biên, tự đắc vũ mao chi dị; Chức tiêu tuyền để, độc thù cơ trữ chi công. Quảng hội chúng tân, thời diên giai luận. Nhân tập cận lai thi khách khúc tử từ ngũ bách thủ, phân vi thập quyển. Dĩ Quýnh thô dự tri âm, nhục thỉnh mệnh đề, nhưng vi tự dẫn. Tích Dĩnh nhân hữu ca “Dương xuân” giả, hiệu vi tuyệt xướng, nãi mệnh chi vi “Hoa gian tập”. Thứ sử Tây viên anh triết, dụng tư vũ cái chi hoan; Nam quốc thuyền quyên, hưu xướng liên chu chi dẫn.
Thời Đại Thục Quảng Chính tam niên hạ tứ nguyệt nhật tự.
Trang trong tổng số 1 trang (1 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi U cốc khách ngày 20/04/2009 21:52
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi U cốc khách ngày 21/04/2009 19:14
Âu Dương Quýnh – Ty Phán quan Tiết độ sứ quân Vũ Đức soạn
Chuốt ngọc chạm châu, muốn khéo léo khác xa tạo hoá; Trồng hoa tỉa lá, mong xinh tươi hơn cả màu xuân. Cái gọi là, rót rượu Hà Lễ, ắt phải say như lòng Mục Vương; Ca khúc Vân Dao, ắt phải thanh tựa lời Vương Mẫu. Danh lừng “Tuyết trắng”, lời lời đã hợp giọng loan ca; Tiếng át mây bay, chữ chữ hài hoà âm phượng luật. Câu “Dương liễu”, “Đại đê” truyền từ Nhạc phủ; Thiên “Phù dung”, “Khúc chử” tạo bởi danh gia. Đâu phải, cửa nọ tranh hơn, giắt trâm mồi tân khách ba nghìn; Tiệc kia so của, bày cây báu Thạch, Vương mấy chục. Hẳn có, công tử trên chiếu lụa, giai nhân chốn màn là, dâng hoa tiên lũ lượt, dệt văn gấm vóc; Giơ ngón ngọc mảnh mai, gõ phách đàn hương. Chẳng có lời từ cao nhã, sao nâng dáng vẻ yêu kiều. Từ thơ cung thể Nam triều, tới khúc xướng ca Bắc Lý. Sao cho rằng có lời mà chẳng hay, hoặc gán nỗi tuy đẹp mà không thật. Từ Đường đã có, trong chốn đô thành, xuân phong lối ngát nhà nhà, mê mải đi tìm Tây Tử; Dạ nguyệt lầu son chốn chốn; đinh ninh đã nhốt Thường Nga. Ở triều Minh Hoàng, có Lý Thái Bạch làm từ ứng chế “Thanh bình lạc” bốn bài, Ôn Phi Khanh trước đây lại có “Kim Thuyên tập”, tác giả đương thời, chẳng hổ với tiền nhân. Nay quan Vệ uý Thiếu Khanh tự Hoằng Cơ, góp chim trả bãi bồi, tự cho khác loài cầm điểu; Dệt sợi tơ dưới suối, riêng mình công sức thoi đưa. Tụ tập chúng tân, hồi lâu bàn luận. Nhân thu thập năm trăm bài khúc tử từ của thi khách gần đây, chia làm mười quyển. Quýnh vụng về dự chốn tri âm, luống thẹn nhận lời đề sách, đành làm bài bạt mấy câu. Trước, người Sở có khúc ca “Dương xuân”, tiếng là tuyệt xướng, liền đặt tên tập này là “Hoa gian”. Sau dùng cho kẻ anh triết ở Tây viên, cưỡi xe tới dự cuộc vui; Người giai nhân nơi Nam quốc, ngừng hát mãi bài Liên khúc.
Viết lời tựa vào mùa hạ, tháng 4, năm Quảng Chính thứ 3 nhà Đại Thục.