Trang trong tổng số 6 trang (55 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Quốc thương (Khuất Nguyên): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Khiên nắm vững da tê mặc áo
Xe tung hoành gươm giáo chạm tay
Cờ rợp bóng, giặc như mây
Quân giành lên trước, tên bay rào rào
Vượt hàng ngũ ào ào xông miết
Ngựa hai bên một chết một thương
Nắm dùi đánh trống ầm vang
Xe chôn hai bánh, ngựa ràng bốn con
Trời ảm đạm mây dồn gió giục
Rợn rùng ghê quỷ khóc thần gào
Đầy đồng xác chết chồng cao
Giết phăng không sót mống nào được tha
Bao chiến sĩ có ra không lại
Chốn sa trường vòi vọi xa xôi
Cắp cung lớn, vác gươm dài
Đầu dù lìa xác không rời lòng son
Đã hùng mạnh lại còn oai vệ
Tính cương cường ai dễ khinh mà
Chết rồi thân vẫn không nhoà
Phách hồn rắn rỏi làm ma anh hùng


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Ảnh đại diện

Diệp mã nhi phú (Đoàn Xuân Lôi): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Phạm Đức Duật

Kìa tạo hoá sinh ra muôn vật, phú cho hình lớn nhỏ khác nhau.
Kìa là sâu hay lá khôn phân, động hay thực khó bề biết được.
Sao con ngựa ở trên lá nọ, do kết hợp giả mà thành hình.
Úp lá xuống thì lưng thành loài có vằn có sống, ngửa lá lên thù bụng mầu lục không héo không khô.
Hai sừng nhọn như ngọc, tựa hái lá vông là đồ chơi; bốn móng sáng như sương, tựa chạm gỗ chử làm hình mẫu.
Thân đủ mà nhỏ con, cao đầu mà rộng ngực; náu hình không phân biệt, càng kết hay hoa phô.
Hình nhỏ nên nhìn khó thấy, mỏng manh chợt có chợt không.
Thấy ôm lá bảo là ve sao lại tiếng kêu không giống, tưởng Trang Chu cho là bướm thế mà lưng bụng khôn so.
Phải chăng lá chuối che hươu, thuyết xưa hoang đản; hay cũng con nai bọc cỏ, câu chuyện nói vu vơ.
Phải nhận rằng trời giáng con sâu điềm tốt, mà hình trạng như loài ngựa rồng.

Nhớ khi:
Rừng rậm rạt rào, lá ngàn lác đác.
Khi sắc re re, gió sường xào xạc.
Không dùng cương ngựa, ai hay giữ được ngựa tài; biết mấy xuân thu, cười mãi lờn cùng ve xác.
Vút cành khô mà vỗ cánh, Ký Bắc sạch không; ...
... không về; dù thân mọn xin thề báo đáp.

Nghĩ mày:
Xưa trốn nơi đồng rậm, nay tới chốn đồng trời.
Không chịu với cỏ cây cùng nát, kính mến vì ơn lớn dưỡng nuôi.
Trên cành ngọc đặt chân nương tựa, trước rèm châu dừng bóng nghỉ ngơi.
Chiều uống móc ngọt cây mộc lan, sáng hớp khói lành nơi phủ tía.
Một liếc, thành gấp trăm giá bội; chỉ tay, mà đi đứng phất roi.
Đặc ngoài phương tướng mạo để phân biệt đực cái, đen vàng; tránh khỏi sự ngửa nghiêng của mọi lẽ thở ăn, đi đứng.
Trộm thấy hoá công tạo vật rất tài, biết rằng hiền tướng dựng xây thật khéo.

Than ôi!
Người vốn lâu dài, thời đang thịnh trị.
Đã hay giữ được thái hoà, lại đáng tụ về muôn phúc.
Trời sinh sâu này, há không có ý.
Dáng hình con ngựa, tỏ rằng quân tử được xe; kết lá làm nên, thấy được nhân dân nhờ cậy.

Vả chăng:
Ngựa là rồng vậy, ứng điềm mở đất vô cùng; lá tựa tốt tươi, tỏ triệu dòng truyền bách thế.
Huống giống sâu này: sinh ra trên đất Kim Âu, rạng rỡ ở nơi thiên động.
Nhằm Linh Đai vừa lúc xây nền, gặp Lạc Ấp đang khi dựng móng.
Gặp giống côn trùng, muôn năm hệ trọng.

Thân thấp hèn may được thái bình, điểm tốt đẹp mở tầm mắt rộng.
Cảm thân gỗ mục mà được tái sinh, gánh vác nặng nề kể chi chết sống.
Phương Trì, Kim Mã nhận thưởng vinh, Lãng Uyển, Bồng Hồ cửu tiên lồng lộng.
Tài chạm trùng khắc triện vẫn biết chửa thông, phú tìm được tôi hiền kính dâng lời tụng.

Ảnh đại diện

Cảnh tinh phú (Đào Sư Tích): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Tiên Sơn

Nắm chốt chấn hưng việc trời,
Sao sáng rọi soi đêm tối.
Ân đức thấm khắp gần xa,
Muôn vậ tốt tươi chói lọi.
Vô tư đức đã dồi dào,
Trời bèn ứng ban điềm mới.
Vì thế điềm tốt lạ Cảnh Tinh, sở dĩ muôn đời mới xuất hiện, là để làm nổi bật phúc lớn thái bình đó chăng!
Kìa xem: Màu sắc huy hoàng, anh hoa bát ngát,
Rọi vừng trăng bạc trắng ngần, choán dòng sông Ngân xanh ngắt.
Cạnh ngôi Đế Toạ rỡ ràng, phản chiếu mặt trời vằng vặc,
Long lanh Tích Mộc bến trời, Phụ Lộ bên sao nổi sắc,
Sáng ngời Chu Bá, ánh rọi nghiêng nghiêng.
Hàm Dự chiếu soi, tia giao rừng rực,
Này sắc nghiêm trang mà bóng lạnh lùng, chính đó là sao Cách Trạch theo bên sao Đức.
Đời vua Đường Nghiêu, thiên hạ sáng ngời, bầu trời chói lọi, rực rỡ khắp nơi.
Sao đến cuối đời Hán Đường, luôn tối tăm mờ mịt đất trời!
Nay nhân gặp buổi thịnh thời, bầu trời lại rạng.
Người người xem thấy sướng vui, đủ nghiệm phép trời toả sáng.
Điềm tốt lạ lùng rất mực, làm cho thiên hạ thái bình.
Âm dương hoà hợp, đất trời yên minh,
Mưa hoà gió thuận, lúa tốt cây xanh.
Khói lửa ba bề yên tĩnh, gió nhân tám cõi bay quanh.
Lễ nhạc sáng tỏ, phép tắc phân minh.
Người yên vật thịnh, chính tốt hình thanh.
Âu ca muôn phương rộn tiếng, ngợi khen bốn bể lừng danh.
Thật đủ để nêu cao nước nhà thịnh trị, và dâng lên một đấng điềm lành.
Nhưng thường xét thấy rằng:
Trời người một lẽ, cảm thông rất mực.
Ứng nghiệm không ở trời mà ở người, tốt lành không tại điểm mà tại đức.
Cho nên: trời giúp vua Thuấn, không tại sánh bầy thất chính, mà tại thiên thời vâng kính.
Trời ban cho vua Vũ, không tại trình bày Lạc thư, mà tại sửa sang sáu phủ.
Huống gì hiện nay: đạo mở Hiên Hy, chính trị vượt hơn Thuấn Nghiêu,
Đức tốt sáng ngời, trăm quan vâng theo.
Cưỡi Ky, Vĩ, sánh khách Thương gia,
Ứng sao Mão, khinh người Hán triều.
Thế thì, chỉnh đốn cõi bờ, định yên đất nuớc,
Để Cảnh Tinh đưa lại điềm lành, thực hợp với Đồ Thư đời trước.
Không điều gì mà không nhờ thánh hoàng ta khéo vận dụng tài năng để mở rộng cho muôn đời bằng mưu lược.
Thần kính cẩn chấp tay cúi đầu mà dâng lời rằng:
Kìa xem điều báu,
Rực rỡ trời cao.
Điềm của thái bình,
Phúc biết dường bao.
Với thánh hoàng ta,
Tại đức không tại sao.

Ảnh đại diện

Hoạ Hồng Châu kiểm chính vận (Trần Nguyên Đán): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Bóng tối đem mưa khắp nơi,
"Phong vu" gắng hoạ vận thơ chơi.
Chùa thôn xuân đẹp, hoa nghìn khóm,
Nền xóm đời vui, rượu một chai.
Nhà trắng đèn xanh, người buộc mãi,
Gác vàng toà tía, lão lưu hoài.
Giúp đời, các vị chăm lo lấy,
Ngâm vịnh bên chằm há lẻ loi.

Ảnh đại diện

Phụng tiễn Xu Phủ tây chinh hành quân đô tổng quản Lê công (Trần Nguyên Đán): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Bóng nhật soi cờ, bãi cát qua,
Hoà Tiêm, sai khiến đảo Qua Oa.
Súng muôn dặm bắn tan đồn giặc,
Thuyền chín buồm giong vượt biển xa.
Vỡ mật quân Tầng kinh tiếng hạc,
Mất hồn tướng Thái khiếp bầy nga.
Đồ Bàn san phẳng chờ tin bảo,
Vẩy bút trong quân thảo khúc ca.

Ảnh đại diện

Ký tặng Nhị Khê kiểm chính Nguyễn Ứng Long (Trần Nguyên Đán): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Mưa phùn gió bắc cảnh thê lương,
Quán trọ đìu hiu khách vấn vương.
Dưới giậu vẻ thanh, còn tiết muộn,
Bên khe hoa trắng, nức mùi hương.
Hồ nhi chưa đến Hoa Môn tái,
Bùi lão ưng về Lục Dã đường.
Câu nguyệt cày mây sao sớm thế?
Muôn chung nghìn tứ Tử vi lang.

Ảnh đại diện

Đề Quan lỗ bạ thi tập hậu (Trần Nguyên Đán): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình

Trung hưng văn vận vươt đời xưa,
Thời thịnh muôn dân ngợi hát ca.
Tướng võ, quan hầu đều biết chữ,
Thợ thuyền, thư lại cũng hay thơ.
Ngang trời, dọc đất, lòng cầm chắc,
Dẹp bắc chinh nam, việc sẵn lo.
Khảo chọn trường văn, xem thi võ,
Lão thần xong hẹn biết bao giờ.

Ảnh đại diện

Đề Nguyệt Giản Đạo Lục thái cực chi Quan Diệu đường (Trần Nguyên Đán): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Xe ngựa nhà ai trước cửa chen,
Thử đem lẽ ấy hỏi tầng trên.
Đào, lê xuân hết, lòng thơm dứt,
Tùng, cúc thu cao, tiết tháo tuyền.
Một điểm lòng son, sinh giống tử,
Mấy hồi hạc hoá, trắng làm đen.
Bồng, Doanh ai biết nơi đâu tá,
Danh lợi màng chi, tớ cũng tiên.

Ảnh đại diện

Cửu nguyệt tam thập nhật dạ hữu cảm (Trần Nguyên Đán): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Song thưa nửa khép đọng sương sa,
Ngân Hán mờ di, ánh nguyệt tà.
Hương bốc niêu con, mùi cháo mới,
Khói xông đỉnh cũ, ấm trà pha.
Nghìn vàng khó đổi mầu thu đẹp,
Một tếch không quay cảnh tuổi già.
Hoa mới cúc mai là phú quý,
Sách đèn nếp cũ ấy sinh nhai.

Ảnh đại diện

Sơn trung khiển hứng (Trần Nguyên Đán): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Mười năm chính tỉnh phụ đèn xưa,
Chống gậy bên thông đặng đọc thơ.
Theo ngựa trông vời không khách tục,
Hỏi thơ gõ cửa có nhà sư.
Lui về Lục Dã sao còn kịp?
Cấp phát Thanh miêu thẹn chẳng dư.
Ngồi đợi công thành danh đã toại,
Một gò xương trắng chất bao giờ.

Trang trong tổng số 6 trang (55 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: