山中遣興

十年政省負秋燈,
松下行吟倚瘦藤。
隨馬望塵無俗客,
叩門問字有詩僧。
退閒綠野知何及?
散給青苗謝不能。
坐待功成名遂後,
一丘老骨已崚嶒。

 

Sơn trung khiển hứng

Thập niên chính tỉnh phụ thu đăng,
Tùng hạ hành ngâm ỷ sấu đằng.
Tuỳ mã vọng trần vô tục khách,
Khấu môn vấn tự hữu thi tăng.
Thoái nhàn Lục Dã tri hà cập?
Tán cấp Thanh miêu tạ bất năng.
Toạ đãi công thành danh toại hậu,
Nhất khâu lão cốt dĩ lăng tằng.

 

Dịch nghĩa

Mười năm lo việc chính sự, phụ với ngọn đèn mùa thu
Dưới hàng thông, chống chiếc gậy khẳng khiu vừa đi vừa ngâm
Không có khách tục theo ngựa ngóng bụi trần
Có vị thi tăng gõ cửa hỏi chữ
Lui về sống an nhàn ở Lục Dã, biết còn kịp chăng?
Chia tiền theo phép Thanh miêu, xin từ không dám
Ngồi đợi đến sau này công thành danh toại
Thì một nắm xương tàn đã vùi lấp thành gò cao.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]

Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Bá Chung

Mười năm việc nước phụ tình
Men hàng thông, gậy bên mình ngâm nga
Khách không - bụi chẳng cuốn xa
Có người tăng sĩ gõ nhà hỏi thơ
Lui về Lục Dã bây giờ ?
Lệ Thanh miêu ấy, xin từ cho xong
Công thành ngồi đó mà mong
Thì xương tàn đã mục trong nấm mồ.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Đức Vân

Mười năm chính tỉnh phụ đèn xưa,
Chống gậy bên thông đặng đọc thơ.
Theo ngựa trông vời không khách tục,
Hỏi thơ gõ cửa có nhà sư.
Lui về Lục Dã sao còn kịp?
Cấp phát Thanh miêu thẹn chẳng dư.
Ngồi đợi công thành danh đã toại,
Một gò xương trắng chất bao giờ.

Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Lương Trọng Nhàn

Mười năm chính sự, phụ đèn,
Bên thông chống gậy đi liền ngâm thơ.
Bụi trần không khách ngựa chờ,
Thi tăng gõ cửa hỏi người bàn thơ.
Lui về Lục Dã bây giờ?
Thanh miêu theo phép xin từ xong thôi.
Công thành danh toại đợi ngồi,
Xương tàn một nắm lấp vùi gò cao.

Chưa có đánh giá nào
Trả lời