Trang trong tổng số 6 trang (55 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Hồ thành hoài cổ (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Bảy dặm thành xưa đất Quảng châu,
Nhà Hồ xây với nỗi dân sầu.
Cướp nước mưu gian hơn Tấn, Nguỵ,
Định đô ý muốn sánh Ân, Chu.
Cỏ che luỹ vắng, hơi sương ướt,
Lúa tốt hồ vuông, bóng nguyệt mù.
Ngàn thuở hưng vong thành việc cũ,
Nàng Khương trinh tiết đá còn lưu.

Ảnh đại diện

Phong quần ngẫu đối (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Một vật thiêng liêng giữa cõi đời,
Hằng năm trong bộng tiếng kêu hoài.
Thanh cao dạo khắp miền sông núi,
Trong sạch ăn hoài nhuỵ cỏ cây.
Giữ nghĩa quân thần khen chúng thế,
Thiếu tình phụ tử cực ta thay.
Côn Lôn nghe nói nhiều phong cảnh,
Nhà cũ sao mà lại tới đây.

Ảnh đại diện

Vũ Kỳ sơn kỳ 1 (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Hoá công xây đắp tự bao giờ,
Một dải xanh xanh núi Vũ Kỳ.
Đỉnh gấm chênh vênh phơi dải lụa,
Đá vằn chót vót dựng cờ mây.
Khe vùng ngọn nước hồi chuông giục,
Gió xoáy bên hang dịp trống bay.
Danh tướng châu ta xưa có sẵn,
Ra tay non nước quét thanh ngay.

Ảnh đại diện

Thất tịch (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Đêm thu năm ngoái bỡn sao Ngưu,
Nay thấy sao Ngưu thẹn với nhau.
Lởn vởn cầu sao đầy cái thước,
Mông mênh bãi Hán vắng chim cưu.
Ba thu giấc mộng mơ màng tiếc,
Một tiếng canh gà giục dạ rầu.
Nhân sự chẳng hay trời có biết,
Tình đời đại để bạc như thu.

Ảnh đại diện

Tửu hứng (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Cùng nhau chuốc chén tán sâu nông,
Anh hãy cùng tôi cởi nỗi lòng.
Phú quý trò đời đừng quá đắm,
Cương thường đạo trọng có chi đồng.
Phú, không Dương Ý ngâm hoài của,
Đàn, chẳng Chung Kỳ gảy uổng công.
Mọi việc bình sinh ta tự tín,
Khen chê mặc quách, dạ như không.

Ảnh đại diện

Xuân trú (Nguyễn Trung Ngạn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình

Quanh co ngõ trúc bọc phòng trai,
Lánh tục ngày luôn đóng cửa sài,
Một tiếng chim oanh xuân tỉnh giấc,
Rêu xanh vô số điểm hoa rơi.

Ảnh đại diện

Cảm tác kỳ 4 (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Nước nhà sao cứ rối ren hoài?
Nửa tại trời xui, nửa tại người.
Ba hộ diệt Tần ai dễ biết
Năm Hồ loạn Tấn lắm người hay.
Dâng vàng hiến lụa thêm nhiều chuyện,
Múa giáo khua chèo được mấy ai?
Ngán nỗi đất này xiêm áo cũ,
Mà nay lũ lượt diện đồ Tây!

Ảnh đại diện

Thuật hoài (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Tinh thần báo quốc dám đơn sai,
Ngán nỗi lòng riêng trái việc đời.
Trước bệ tâu bày dầu có trước,
Ngoài biên đánh dẹp thẹn không tài.
Kinh thành nộp sớ hiềm không kịp,
Tân Sở dâng thư lại quá chầy.
Vinh nhục thân này chi xá kể,
Lòng son giết giặc chết không phai.

Ảnh đại diện

Cảm thuật kỳ 1 (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Nếp xưa áo mũ vẻ trùng điêu,
Chung sống ngày ngày với sói beo.
Sông núi nước ta tằm lấn mãi,
Cửa nhà ai đó én bay theo.
Trâu Nam thở rược khi trăng sáng,
Ngựa Bắc kêu dồn lúc gió heo.
Loài vật còn hay quen thuỷ thổ,
Riêng phần én sẻ cứ tiêu dao.

Ảnh đại diện

Đông nhật thuật hoài (Nguyễn Xuân Ôn): Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Hà Văn Đại

Năm xưa hộ giá tại biên đình,
Nay bị xe tù giải tới kinh.
Thế sự mặt nhìn càng ngán nỗi,
Niên hoa tay bấm lại tròn vành.
Tân đình phong cảnh đôi hàng lệ,
Cố quốc mây mù một mối tình.
Đông chí dương sinh xuân lại đến,
Đón chào mai nở liễu buông mành.

Trang trong tổng số 6 trang (55 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: