(Đọc tiếp Tin văn)
Khao khát tình yêu, đắm đuối trong những ảo tưởng tự tô vẽ, ở người đàn bà này, hình ảnh người tình luôn được “thiêng hóa”: Anh đến như trời sai đến/ Em không giữ nổi phép màu/ Như có bàn tay định mệnh/ Bàng hoàng ánh mắt giao nhau (Lời anh trên biển)... Nồng nhiệt và tự tin đến ngây thơ, bất chấp những cảnh ngộ thực tế, người đàn bà ấy sẵn sàng cao giọng “thách thức” với mọi thử thách khắc nghiệt nhất của đời sống: Gian khổ hay cách trở/ Thương nhau thêm bội phần/ Và với em khi đó/ Tình yêu là phép nhân (Phép nhân)... Và với tất cả sự đa cảm và vụng dại, chị sẵn sàng “thế chấp” tất cả niềm tin vào tình yêu, cho dù đó chỉ là tình cảm từ một phía và không hề được đáp đền: Dẫu chẳng được hẹn hò/ Em cứ đợi, cứ say/ Ngâu có xa nhau, Ngâu có ngày gặp lại/ Kim – Kiều lỡ duyên nhau/ Chẳng thể là mãi mãi/ Em vẫn đợi/ Vẫn chờ/ Dẫu chỉ là huyền thoại một tình yêu! (Huyền thoại)...
Có thể thấy đây cũng là điểm gần gũi giữa nhiều tâm hồn phụ nữ: sống nghiêng về cảm tính, khi yêu, họ thường hết mình, không chút tính toán, so đo và những ngộ nhận, nhầm lẫn xuất phát từ sự “trái tim nhầm chỗ để trên đầu” ấy là một điều rất dễ xảy ra. Ta có thể bắt gặp tiếng thơ đầy khát khao dâng hiến nhưng cũng đầy những ám ảnh buồn bã trong thơ của nhiều tác giả nữ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Mây... Với Đoàn Thị Lam Luyến, thơ cũng là một cách để chị “tự nghiệm” về cuộc đời với không ít xót xa. Có điều, trong cách “tự nghiệm” của người đàn bà “dại yêu” ấy vẫn phảng phất một nụ cười giễu cợt và điều này tạo nên một sắc thái rất riêng trong những câu thơ tình của chị: chính trong cách nói về sự “mù quáng” ấy lại thể hiện rất rõ sự tỉnh táo của con người.
3. Những ảo tưởng có thể đem lại ít nhiều thi vị, ngọt ngào trong cảm xúc, nhưng chính đó lại là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ tất yếu khi con người buộc phải đối diện với thực tế. Và khi đó, thay vào cái nhãn quan lãng mạn hóa ban đầu là một cái nhìn trực diện vào đời sống với một cảm hứng “phản tỉnh” ráo riết. Ta thấy điều này được đánh dấu bằng một loạt động từ: biết, nhận biết, nhận ra, thức tỉnh, ... ; một loạt tính từ: ngậm ngùi, đau khổ, buồn nản, tàn tạ, tan nát, mệt mỏi, cô đơn, dại dột, đơn lẻ, đắng cay, trái ngang, dang dở... Và rất nhiều những câu hỏi, những lời tự vấn hoang mang, mệt mỏi: Sao ta cứ lầm hương/ Với mùi thơm của lá/ Lửa tình ta cố nhen/ Khi tim người lạnh giá? (Trả ta về cô đơn); Em ở hiền/ Em có ác chi đâu/ Mà trời lại xui anh bắt đầu tình yêu với người con gái khác? Có phải rượu đâu mà chờ rượu nhạt/ Có phải miếng trầu/ Đợi trầu dập, mới cay?(Huyền thoại); Ta muốn ôm cả đất/ Ta muốn ôm cả trời/ Mà sao không yêu trọn/ Trái tim một con người!? (Gửi tình yêu)...
Trong một con mắt tỉnh táo, cái tình yêu được tô vẽ với bao “ảo sắc thiên đường” đã mất đi ánh hào quang giả dối của nó. Người đàn bà phải đối diện với sự thật đổ vỡ, dối lừa như “những nhát roi vào tim/ Cứ bầm bầm máu ứa”. Và cái tình yêu đầy ảo tưởng giờ đây chỉ còn lại những chua chát, bẽ bàng cùng cực: Càng say càng gặp tình vờ/ Non non nước nước lập lờ lứa đôi (Yêu để cho thơ); Đa tình liền với đa đoan/ Tơ duyên cứ nối lại càng nối thêm (Tích tịch tình tang)... Tỉnh mộng, người đàn bà nhận ra cái tình yêu mà mình đắm đuối “cá cược” cả cuộc đời mình vào đó, thực chất chỉ là một hành động mù quáng, không hơn: Em đương lấy sóng làm cầu/ Khơi xa làm bến, đáy sâu làm thuyền (Em gái)...
Dĩ nhiên, trong cái nhãn quan ấy, hình tượng người tình cũng sẽ mất đi vẻ hào nhoáng ban đầu. Giờ đây, người đàn ông hiện lên chân thực hơn, và cũng ...tầm thường hơn. Đấy là một kẻ ham vui, yếu mềm và dễ sa đà: Khi em chờ mỏi mắt rồi/ Anh còn ở mãi phương trời nào đây/ Nơi nào anh cũng dễ say/ Nơi nào cũng sẵn vòng tay đợi chờ (Nhớ Hồ Xuân Hương)...; Đấy cũng là một con người nhạt nhẽo, hèn đớn, ngược hẳn với cái say đắm đến quyết liệt của người đàn bà: Em đam mê đến độ hững hờ/ Anh chầm bập như là yêu thật vậy/ Nhưng em biết em chỉ là trang giấy/ Lúc mềm lòng anh rắp vẽ vu vơ (Khách mời)... Thậm chí, lừa dối và bạc bẽo: Dù hóa trang gương mặt mình khéo đến thế nào chăng nữa/ Anh vẫn là một Thúc Sinh Thôi/ Kỉ niệm Lâm Chuy, Kiều có phải báo ân đền nghĩa/ Anh cũng đã đem em đi bỏ chợ người (Kiều có ở trong em)...
Rõ ràng, trong cái nhìn này, hình tượng người đàn bà mạnh mẽ, chủ động bao nhiêu thì người đàn ông lại bạc nhược, yếu đuối, thiếu bản lĩnh bấy nhiêu. Song thực ra, sự mạnh mẽ này dường như không phải “chủ đích” của người đàn bà, chẳng qua khi rơi vào tình cảnh ấy, chị buộc lòng phải gồng mình lên để chịu đựng, để gánh vác. Cái chao chát đáo để chỉ là vỏ ngoài, nhằm để che đầy một tâm hồn yếu đuối, đa cảm và dễ thương tổn bên trong. Và điều đó, tôi nghĩ, xét đến cùng, lại là một nỗi đau khác.
4. Nhưng nguyên nhân của những bi kịch ấy là ở đâu? Dù cảm hứng phân tích, lí giải không phải là cảm hứng nổi bật trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến, nhưng rõ ràng chị rất có ý thức “truy tìm” lời giải đáp cho câu hỏi này. Bởi vì, trước hết, đó là câu hỏi của chính đời chị.
Và lí do trước hết, là vì mình, vì sự ảo tưởng, non nớt, cả tin... của mình, tóm lại là vì mình...dại. Nhưng trong một cái nhìn khái quát, nhà thơ còn thấy một nguyên nhân nữa, chi phối những khổ đau trong cuộc đời chị, ấy là... số phận. Trong thơ mình, Đoàn Thị Lam Luyến nhắc nhiều đến số phận, duyên phận, số trời, mệnh trời, phận trời... Ngẫm lại phần đời đã trải với bao cay đắng, tác giả đã phải thốt lên: Cái phận trước, cái duyên sau/ Nào ai tính được dài lâu với trời? (Chồng chị chồng em); Mẹ sinh em đêm hay ngày/ Mà sao như số trời đày thế gian? (Tích tịch tình tang)... Là số phận, cho nên không “có số được vàng”, là số phận cho nên “duyên thiên cách trở muộn màng nhau”, cho nên “tơ duyên đã nối lại càng nối thêm”... Số phận, trong triết lí dân gian, như một sợi dây trói buộc vô hình mà con người khó lòng vượt ra được. Nhưng với Đoàn Thị Lam Luyến, một người đàn bà hiện đại, số phận còn mang ý nghĩa như một thử thách để qua đó con người bộc lộ được bản lĩnh và nhân cách sống của mình. Dẫu không hề muốn, nhưng khi đứng trước những éo le của cảnh ngộ, những éo le mang tên “số phận”, người đàn bà ấy không trốn tránh, hay chỉ biết than thân trách phận, mà còn biết can đảm đối diện và vượt lên bằng một thái độ ứng xử đầy mạnh mẽ và chủ động.
Ta có thể thấy những điều này rất rõ trong bài thơ Chồng chị, chồng em. Bài thơ được cấu tứ trên những tương quan đối lập: xưa/ nay; gần / xa; phận/ duyên; buồn/ vui; chồng chị/ chồng em.... Đấy cũng là cảnh ngộ tình duyên đầy éo le. Người đàn bà luôn khát khao tìm kiếm một tình yêu lí tưởng, “một tình yêu chỉ riêng dành cho tôi” nay lại phải đứng trước tình thế: “Xưa thì chị, nay thì em” và cái sợi dây “tơ hồng” của duyên phận ấy thực ra cũng chỉ là “nối thêm”. Cái sự thật đầy ngậm ngùi ấy được diễn tả ngắn gọn trong một câu lục bát với giọng điệu thật tự nhiên và điềm đạm:
Xưa thì chị, nay thì em
Phải duyên chồng vợ nối thêm tơ hồng
Phải chăng, chìa khóa hóa giải nỗi niềm lỡ dở và dễ gợi sự chạnh lòng ấy nằm trong chữ “duyên” – “phải duyên”? Người đàn bà đã nhìn nhận sự gặp gỡ ấy như là một sự tình cờ tốt đẹp của số phận, dẫu muộn mằn và không đợi mà gặp. Nhưng đấy chỉ là một cách nói. Thực tế, cảnh ngộ vẫn đầy những éo le: Được lúa, lúa đã gặt bông/ Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa;... Vẫn đầy những bất trắc, lo âu: Tình yêu một mất mười ngờ/ Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau... Điều cơ bản khiến con người ấy có thể vượt lên tất cả những thử thách của hoàn cảnh là “biết” - hiểu theo nghĩa là sự thấu hiểu, cảm thông và chấp nhận. Câu thơ “Biết thì ruộng hóa cũng nên mùa màng” mang ý nghĩa như một triết lí nhân sinh ngắn gọn mà sâu sắc. Không còn những ảo tưởng bồng bột thời trẻ tuổi về một tình yêu duy nhất và tuyệt đối, những dang dở, đắng cay mà người đàn bà đã trải qua suốt quãng đời dài khiến chị biết vượt lên sự ích kỉ, hờn ghen thông thường, cả những miệng tiếng dị nghị của thói đời, để chắt chiu, trân trọng cái hạnh phúc trong hiện tại, trong cả sự không trọn vẹn của nó:
Đã từng hai mảnh tay không
Kể chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người
Dở dang suốt nửa cuộc đời
Bỗng dưng hiện một mặt trời trong nhau
Ta thấy người đàn bà trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến là một con người từng trải và thực tế. Cái mà chị khao khát là cái hạnh phúc có thực, cái ái ân có thực của cuộc đời bụi bặm và lắm hệ lụy nhưng gần gũi này chứ không phải ở một thiên đường cao xa và lí tưởng nào. Sự “thản nhiên” trong câu thơ “Thản nhiên em nhận bã trầu về têm”, thực chất là một sự lựa chọn chủ động trong một tình thế bị động. Khi đã trải qua bao thăng trầm, được mất của đời người, người đàn bà ấy nhận ra rằng, tình yêu không chỉ là chuyện của mỗi một cá nhân, mà còn là chuyện của cuộc đời, của tình người. Cho nên, cho đi chính là được nhận lại. Những đau khổ dạy con người biết nhìn rộng hơn, biết độ lượng hơn, biết tha thứ và sẻ chia hơn. Cần thấy rằng sự tỉnh táo ở đây không phải là sự tỉnh táo của một đầu óc ráo riết duy lí là sự tỉnh táo của một tấm lòng trung hậu. Do đó, bài thơ nói về một cảnh ngộ dở dang, ngang trái nhưng người đọc lại nhận thấy sự vững vàng và nhân ái của một tâm hồn; bài thơ nói đến sự chua xót và đau đớn, nhưng người đọc lại nhận ra một sự thấu hiểu và vun đắp đầy trách nhiệm. Nói cách khác, bài thơ nói về một cảnh ngộ bi kịch nhưng cũng ở đó, bi kịch đã được hóa giải bởi bản lĩnh và thái độ ứng xử đầy nhân văn của con người.
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...