Trang trong tổng số 24 trang (235 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

buithison

Đoc tiếp tin văn:Vì sao định mệnh lại chọn tôi làm con cá oan nghiệt kia? Suốt mấy năm trời trong trại giam tôi vẫn tự hỏi, vì xét theo logique, tôi chẳng thể nào hình dung mình có ngày “ách giữa đàng đâm quàng vào cổ” như thế.

Bởi lẽ thứ nhất: từ khi Hoàng Cầm hoàn thành VKB (mùa xuân 1960) cho đến tháng 8 năm 1982, đã có hàng trăm bản chép tay của nó được lưu truyền, mà không thấy ai làm sao, cũng không ai phổ biến lệnh cấm dù chỉ là lệnh miệng. Lý lẽ này tôi lặp đi lặp lại trong các buổi hỏi cung, tôi còn vặn lại người cán bộ xét hỏi: “Để một tài liệu ‘phản động’ tự do lưu truyền trong 20 năm như thế thì trách nhiệm của cơ quan an ninh ra sao?”. Tất nhiên họ không trả lời được. Và hậu quả của sự “cứng đầu” cộng với ngây ngô của một anh nhà-giáo-nhà thơ-đi-làm-báo tưởng rằng trên đời có thứ gọi là công lý, là tôi phải nhận đến 39 tháng tù trong khi “đầu vụ” chỉ có 16 tháng!
Lẽ thứ hai là quan hệ của tôi với tác giả VKB vốn không có gì mật thiết. Là một trong số những nhà thơ trẻ nổi bật của “thế hệ chống Mỹ”, nhưng vì “trót” đọc được tiếng Pháp, tôi sớm giác ngộ về “CNXH với bộ mặt người” qua những sách báo tiếng Pháp ở ngay trong Thư viện Quốc gia (Nhà nước cho rằng rất ít người biết tiếng Pháp nên không kiểm duyệt bỏ những ấn phẩm tiếng Pháp “nhạy cảm” được nhập vào đó theo con đường viện trợ, trao đổi). Đó là thuyết “chủ nghĩa hiện thực không bờ bến” của Roger Garaudy, một nhà lãnh đạo ĐCS Pháp, những tư tưởng “xét lại” của George Lukacs, nhà lãnh đạo cộng sản Hungary, tiểu thuyết “Docteur Jivago” của B. Pasternak, các tài liệu về Đại hội ĐCS LX lần thứ XX, về những biến động ở Hungary, Tiệp Khắc… Những sách vở ấy cộng với thực tế nhiều phũ phàng mà tôi va chạm trong mấy năm dạy học và “đi thực tế sáng tác” ở vùng công nghiệp Hải Phòng, Quảng Ninh, cộng với sự đổ vỡ niềm tin chiến thắng sau Tết Mậu Thân và cái chết của “Bác”, khiến tôi ngày càng hoài nghi sự đúng đắn của chế độ. Tất nhiên tôi cũng nhìn lại phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bằng con mắt hoàn toàn khác những gì Đảng dạy. Vì thế, cuối năm 1969, khi đã viết một số bài thơ “ngoài luồng” không thể công bố, tôi tìm đến làm quen với anh Văn Cao qua dịch giả Dương Tường. Chính Văn Cao là người đã khuyến khích tôi tiếp tục lối thơ “bàng thống” mà tôi đang bước vào. Anh trở nên thân thiết với tôi, và đã đứng chủ trì buổi tiếp bạn bè văn nghệ trong ngày cưới tôi đầu năm 1975. Với Hoàng Cầm thì khác. Không chỉ “có vấn đề” về tư tưởng, ông còn tai tiếng là con nghiện (thuốc phiện) và chủ quán rượu chui. Tôi – một nhà thơ trẻ đang được ưu ái, lại là nhà giáo và nhà báo của ngành giáo dục (Báo Người Giáo viên Nhân dân), cũng thấy ngại dây dưa! Mãi sau khi đã chuyển vào SG công tác, tư tưởng ngày càng “diễn biến hòa bình” do tác động của cuộc sống và sách vở tàn dư của chế độ SG, trong một lần ra Hà Nội vào cuối những năm 1970 hay đầu 1980, tôi mới tìm đến Hoàng Cầm, cũng do Dương Tường đưa dắt. Chính lần ấy, tôi được nhà thơ khoe một bản thảo VKB do ông chép tay chữ rất đẹp, bay bướm uyển chuyển, có mấy phụ bản tranh của Bùi Xuân Phái vẽ các cô gái quan họ. Đó là tập bản thảo mà ông đã bán cho ông Lâm chủ quán cà phê chuyên sưu tầm tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng ở Hà Nội, nay ông mượn lại, có lẽ để khoe với những người bạn mới, có thể là Việt kiều chăng? Nhân dịp, tôi đã xin nhà thơ chép cho ba bài Cây – Lá - Quả đem về SG khoe vài người bạn văn nghệ “chui” vốn là dân SG cũ (trong đó có anh Phương Kiến Khánh, sau trở thành nhà thơ Chân Phương ở Mỹ).

Trong chuyến ra Hà Nội tháng 8 năm 1982, định mệnh xui khiến tôi lại đến với Hoàng Cầm ngoài chủ ý. Một bữa tôi gặp Dương Tường trên phố, anh sốt sắng bảo tôi đến an ủi Hoàng Cầm vì nhà thơ vừa trải qua một bi kịch: con gái yêu của ông là nữ diễn viên kịch Hoàng Yến chết đột ngột – nghe đâu là tự tử. Tôi đến chơi, lại nghe ông than là vừa bị mất tập bản thảo VKB mượn lại của Lâm cà phê (chắc hẳn CA đã lấy đi làm hồ sơ cho vụ án VKB đang chuẩn bị). Ông tỏ ra rất tiếc xót, vì khó có cơ hội làm lại một tập đẹp như thế. Tôi hứng lên, nói sẽ làm lại cho ông một tập đẹp hơn thế. Ông bảo tôi đến gặp Trần Thiếu Bảo ở phố Bát Đàn, nhờ ông này mua giấy và bút bi loại tốt để ông chép. Trần Thiếu Bảo nhận lời ngay. (Chỗ này, nhân thể nói bài nghiên cứu của tác giả người Đức Heinz Schutte công bố trên talawas 31/7/2010 có chỗ lầm: ông cựu giám đốc NXB Minh Đức sau khi ra tù không bị chỉ định cư trú ở Nam Định cho đến chết, ông đã được về lại HN từ lúc nào đấy, và vào năm 1982, ông đang chuẩn bị mở quán ăn để sinh sống tại số 5 (?) Bát Đàn. Thế là việc chép tay VKB tiến hành. Tôi đồng thời đến xin Văn Cao một phác hoạ làm bìa tập thơ VKB, và xin Bùi Xuân Phái mấy phụ bản. Ít ngày sau, tôi vui sướng có trong tay một bức hoạ mấy cái lá bay (chắc là “lá diêu bông”) của Văn Cao và 4 phụ bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ nón quai thao áo tứ thân. Có một chi tiết mà những ngày đó tôi đã bỏ qua. Trong thời gian này, tôi hầu như ngày nào cũng đến quán rượu Hoàng Cầm để giục nhà thơ chép cho xong tập thơ. Một tối, tôi trông thấy trong quán có một người quen, anh nguyên là giáo viên cùng dạy học với tôi ở Hải Phòng, nhưng đã chuyển về HN, nghe đâu làm ở bộ CA, vì anh là cháu ruột ông tướng CA nổi tiếng Nguyễn Công Tài. Thấy tôi, anh cất giọng lè nhè như của người say rượu bảo: “Cái ông Hưng này đến là rách việc”. Tôi hồn nhiên không để ý, chỉ cười rồi đi ra. Sau khi bị bắt tôi mới đoán rằng anh bạn đồng nghiệp cũ có lòng tốt cảnh báo để tôi khỏi sa bẫy. Nhưng lúc đó tôi hoàn toàn ngây thơ và tự tin việc xin thơ Hoàng Cầm chẳng có vấn đề gì mà phải đề phòng
Ngày Hoàng Cầm hoàn thành việc chép VKB, tôi muốn nhân đó có một cuộc liên hoan nhỏ với các bậc đàn anh để ăn mừng và cũng là để chia tay lên đường vào lại SG. Ông Trần Thiếu Bảo đề nghị làm ngay tại nhà ông ấy, như cũng để khai trương quán của ông. Đầu bếp là Phan Tại, nhà viết kịch cũng là đồng phạm của ông trong vụ xử án “gián điệp phản động NV-GP” năm 1960. Trong bữa ăn vui vẻ tình cảm dạt dào giữa những người cùng tâm sự (có Hoàng Cầm, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại; tôi tuy vong niên nhưng được các đàn anh cư xử như kẻ ngang hàng), ông Bảo khoe mọi người hai cái “bìa” cho tập VKB và tập thơ của tôi mà ông trình bày theo lối siêu thực (Trước đó ít lâu, tôi có khoe một tập bản thảo thơ “chui” của mình cho một số bạn văn nghệ ở HN, trong đó có Nguyễn Thuỵ Kha, tập thơ gây ấn tượng khá mạnh vì sự phá cách của nó. Ông Bảo xin mượn ít hôm). Sau liên hoan, ông Bảo đề nghị tôi cho ông mượn tiếp tập ấy cùng với tập VKB vừa mới hoàn thành.

Những ngày sau đó, tôi lo chuẩn bị để lên đường, nên định bụng trước khi đi mới đến nhà ông Bảo lấy lại hai tập thơ. Không hiểu sao ông Bảo rất sốt ruột, ngày nào cũng đến nhà bà chị tôi (là nơi tôi ở nhờ trong thời gian lưu lại HN) thúc giục tôi tới lấy! (Sau mới ngã ngửa ra là Trần Thiếu Bảo bị CA khống chế, phải làm chỉ điểm cho họ, ít ra là trong vụ VKB này. Nếu vì lý do gì đó mà tôi không đến lấy hai tập bản thảo, thì vụ án bị hẫng to!)
Hoá ra họ đã sắp xếp rất chu đáo để “cất vó” VKB mà tôi là một con cá hẩm hiu ở đâu đến chui đầu vào lưới. Sau này một anh CA quen thân với gia đình anh cả tôi còn cho biết họ đã bí mật theo dõi, quay phim tôi suốt nửa tháng trời mà tôi không hề để ý!  
Chiều 17/8/1982, sau khi sắp xếp xong hành lý để đi chuyến tàu tối xuống HP và sáng hôm sau đi tàu biển vào SG, tôi đến nhà Trần Thiếu Bảo lấy lại 2 tập thơ. Vào trong quán, tôi thấy hai người đàn ông đang ngồi uống nước. Sau vào trại giam đi “cung” mới biết đó là ông Khổng Minh Dụ ở A25, sau này sẽ là Thiếu tướng Cục trưởng và cũng là “nhà thơ”, và anh Thuận, trợ lý của ông, sau này sẽ là Cục phó Cục chống Bạo lọan. Tôi cứ hồn nhiên cầm tập thơ đi ra, lên xe đạp phóng. Được một đoạn, bỗng có hai anh thanh niên đèo nhau xe gắn máy ép tôi vào lề đường. Hai anh nhảy xuống, giữ tôi lại, bảo: “Cái xe đạp anh đang đi là xe của chúng tôi bị mất cắp”. Tôi kinh ngạc, vì tôi đang đi chiếc xe của bà chị ruột. Đang cãi qua cãi lại, thì một công an mặc sắc phục ở đâu tiến tới, nói: “Các anh lộn xộn gì thế, mời về đồn giải quyết”. Đồn CA gần đấy là đồn Hàng Bạc. Vào trong đồn, anh CA xưng là đồn trưởng, yêu cầu tôi bỏ hết các thứ trong túi xách ra. Thấy tập bản thảo của Hoàng Cầm, anh ta hỏi: “Cái gì thế này? Thơ à? Thơ của ai đây?”. Tôi đáp: “của Hoàng Cầm.” “Hoàng Cầm là ai? Anh ngồi đây đợi, cái này tôi phải xin ý kiến cấp trên”. Tôi ngu đến mức vẫn chưa biết đây chỉ là một màn bi hài kịch dàn dựng sẵn.

Sau khoảng 20 phút chờ đợi, anh đồn trưởng bước vào, bảo: “Đây là ý kiến cấp trên”. Anh giở ra một tờ giấy, đọc: “Lệnh bắt và khám xét khẩn cấp” vì tội “lưu truyền văn hoá phẩm phản động”. Thế là nhanh như cắt, hai anh thanh niên “mất xe đạp” lúc nãy hiện nguyên hình là CA, áp giải tôi lên xe bịt bùng, đưa về… Hoả Lò!
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

Đọc tiếp tin văn:Ngày 20/8/1982 thì đến lượt Hoàng Cầm bị bắt. Còn Nguyễn Mạnh Hùng, khi ấy đang ở SG chuẩn bị bay về Canada. May được Dương Tường kịp báo hung tin, anh gửi ngay tập bản thảo VKB cho Cao Xuân Hạo giữ, ra sân bay vô tang. (Tuy nhiên, khi khám xét hành lý của tôi, CA thu được một bức thư Hoàng Cầm nhờ tôi đưa cho Nguyễn Mạnh Hùng khi vào SG, thư dán kín nên tôi không biết nói gì trong đó). Hùng bị cấm cửa về VN trong suốt 20 năm. Chuyến anh trở lại VN sau 20 năm ấy, lần đầu tiên hai người “đồng phạm” bất đắc dĩ chúng tôi mới gặp nhau.

Sau khi tôi và Hoàng Cầm bị bắt, tin đồn lung tung, có cả tin tôi bị bắt vì mang thuốc phiện lậu! Theo nhà báo Trần Đức Chính, TBT tờ báo của Hội Nhà báo VN, thì có tờ báo hồi ấy đăng tải cả một chuyện vụ án mang tên “ Vụ án hai ông Hoàng” với nhiều tình tiết ly kỳ! Gần đây, một số sách báo ở nước ngoài và trên mạng vẫn viết là Hoàng Hưng bị bắt vì âm mưu chuyển tập thơ VKB vào sứ quán Pháp! Mới biết trí tưởng tượng của người ta phong phú thật!

Kết cục của vụ án tóm tắt như sau: Hoàng Cầm sau mấy tháng bị giam thì kiệt sức vì bị khủng bố tinh thần liên tục mà lại không có nàng tiên nâu trợ lực, phải nhận tội phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội, chống chế độ, để mong sớm được ra.

Tôi không thể nào quên cái buổi sáng ấy trong Hỏa Lò. Sau mấy tháng không thuyết phục được tôi thừa nhận VKB là “phản động”, CA để tôi nghỉ một hơi dài. Rồi bỗng một hôm tôi lại được gọi đi “làm việc”. Người CA đưa tôi vào một phòng hỏi cung, nhưng không có ai trong đó. Mà lại có một tập giấy thếp viết sẵn để trên bàn. Tôi tò mò giở ra, thì… trời ơi, đó là bản tự khai của Hoàng Cầm, tôi nhận ra chữ viết rất nắn nót, đẹp, của ông. Tôi đọc lướt, càng đọc càng hoang mang vì ông nhận tuốt tuột các ý tưởng chống Đảng, đả kích chế độ… trong tập thơ. Để cho tôi một mình đọc xong, người ta mới đưa tôi trở lại phòng giam. Và họ bố trí rất khéo, để như tình cờ tôi gặp Hoàng Cầm đang ngồi ở cổng chờ (giữa khu trại giam và khu “làm việc” có một cái cổng lớn, sau khi “làm việc” xong phạm nhân ngồi đó chờ “quản giáo” ra nhận để đưa vào buồng giam). Tôi xông đến bên ông, hỏi gay gắt: “Anh nhận tội phản động thật à? Sao lại thế?” Hoàng Cầm cúi đầu xuống, không nói gì, từ khóe mắt ông lăn ra những giọt nước mắt. Đến tận hôm nay, nhớ lại những giọt lệ tủi nhục của nhà thơ đàn anh, lòng tôi vẫn còn đau. Với tôi, tự buộc mình phải hèn để có thể tồn tại là điều không gì đau hơn cho một kẻ sĩ.

Nhưng trong lúc Hòang Cầm ngong ngóng CA thực hiện lời hứa (?) cho về vào dịp Tết, thì một số trí thức Pháp do Thiền sư Thích Nhất Hạnh vận động đã gửi thư cho Lê Đức Thọ đề nghị thả nhà thơ. Tin đến tai Tố Hữu, ông “bạn thơ” quý hoá phán một câu xanh rờn: “Nước ngoài can thiệp hả? Thế thì giam thêm 1 năm nữa cho biết!” (theo lời Hoàng Cầm kể, Hoàng Hưng ghi, đăng trên talawas mở đầu tập VKB 5/4/2007). Thế là Hoàng Cầm bị giam tổng cộng 16 tháng (20/8/1982 – trước Noel 1983).

Còn bản thân tôi, chỉ vì tội bướng, mà bị CA lục tung nhà trong SG suốt một ngày trời. Họ tìm ra một số trang nhật ký bằng văn vần làm từ đầu thập kỷ 1970 mà CA nhận định là “phản động gấp 100 lần thơ Hoàng Cầm” (lời ông Khổng Minh Dụ)[2]. Sau gần ba năm điều tra rất công phu mà không tìm thấy gì chứng tỏ tôi nằm trong đường dây liên lạc với bọn “văn nghệ sĩ phản động hải ngoại”, cuối cùng, nhờ là “cán bộ nhà nước phạm tội lần đầu”, tôi được đặc ân “chỉ xử lý hành chính nội bộ chứ không bị truy tố ra toà” (lời viên CA khi công bố lệnh “tập trung cải tạo” dành cho tôi). Mãi đến cuối năm 1985, nhờ không khí chính trị có phần nới lỏng trước Đổi mới, và nhờ người anh ruột là Bác sĩ phục vụ các cán bộ cao cấp đứng ra bảo lãnh, tôi mới được về sau 39 tháng tù, với cái lệnh tha mang tội danh được cải thành “lưu truyền văn hoá phẩm đồi trụy” (!) Không hiểu sao lại có sự cải đổi từ “văn hoá phẩm phản động” sang “đồi trụy” như thế? Chắc là CA không muốn có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ có tội danh “phản động” trong luật pháp VN, cũng như họ không bao giờ thừa nhận có “tù chính trị” vậy. (Những người bạn vong niên của tôi bị tù đầy trong vụ án “xét lại” khi ra tù không ai được cầm lệnh tha hay giấy ra trại!)

Một điều an ủi lớn cho tôi: bị nhà nước bỏ tù, nhưng tôi được đồng nghiệp bạn bè cảm thông. Thời gian tôi bị bắt, có chuyện được coi là hy hữu: Báo NGVND, cơ quan tôi, hết sức bênh vực tôi. Báo còn trả lương đều đặn và gửi quà cho tôi, bất chấp CA phàn nàn; phải 2 năm sau, khi CA công bố lệnh tập trung cải tạo với tôi, báo mới đành ngưng việc ấy và Bộ Giáo dục mới ra quyết định “cho ông Hoàng Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo” (chứ không “buộc thôi việc” như thường thấy trong các vụ tương tự). Người có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang, Bí thư Chi bộ Đảng, Thư ký Toà soạn báo NGVND. Ở SG, gia đình tôi lâm vào cảnh “vợ dại con thơ” cực kỳ khốn đốn, có những bữa phải ăn chuối trừ bữa, nhưng bù lại đã nhận được sự thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực, của các thầy cô gíao dạy cháu Hoàng Ly.

Sau khi ra tù, Hoàng Cầm mất hằng năm trời sống trong trạng thái thường trực hoảng loạn, hậu quả của thời gian tù ngục. Nhờ sự động viên của bạn bè văn nghệ ông mới dần dần hồi phục. Sau Đổi mới, thơ Hoàng Cầm bắt đầu tái xuất, nhưng riêng VKB còn bị CA  ngăn trở dài dài cho đến tận năm 1994 mới ra mắt được. Hoàng Cầm trở thành gương mặt của truyền thông không thua gì các “sao”, cuối cùng ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học (2007). Tuy nhiên, cho đến khi ông qua đời (tháng 5/2010), chính quyền không hề có một lời minh oan hay xin lỗi, đừng nói gì đến bồi thường cho những năm tù đầy oan ức của ông.
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

Đọc tiếp tin văn:Còn tôi, ngay sau khi tôi ra tù, GS Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, thầy dạy cũ của tôi ở Khoa Văn Đại học Sư phạm, ngỏ ý sẵn sàng nhận tôi làm việc ở cơ quan Bộ. Nhưng tôi chọn tiếp tục nghề báo, và năm 1988, tập Ngựa biển bao gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị CA tịch thu năm 1982, là tập thơ “ngoài luồng” đầu tiên tự xuất bản ở nước ta sau Đổi mới, nhờ được anh Trương Văn Khuê, Giám đốc NXB Trẻ cương quyết bảo vệ. Từ đó tôi in thơ bình thường. Riêng tập thơ Ác mộng viết về những trải nghiệm tù đầy thì đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Tuy nhiên một số bài trong đó đã được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang Huy, Giám đốc NXB Văn Hoá – Thông Tin, rồi sau đó bài Người về được đưa vào những tuyển thơ quan trọng nhất; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng tập văn học thế giới của một tập đoàn xuất bản quốc tế danh tiếng. Riêng có chuyện xuất cảnh thì tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành nhân chứng sống cho “thành tích nhân quyền” của chế độ. Mãi đến năm 2000, do một đồng nghiệp bảo lãnh trực tiếp với ông Tổng cục trưởng An ninh, tôi mới được ông đích thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm “điều kiện” nào.

Có hai chuyện thú vị về “hậu vụ án VKB”:

Năm 2002, khi tôi về hưu tại báo Lao Động, do khiếu nại của tôi, báo Lao Động và Tổng LĐLĐVN đã kiến nghị Bộ Lao Động TBXH trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm việc trước khi bị bắt (quy định phi lý phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam, như đã áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn). Lý do được nêu rõ trong công văn: Ông Hoàng Hưng bị bắt giam vì cầm tập thơ VKB của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản động, nay xã hội đã có nhìn nhận khác, quyền lợi của ông HH phải được trả lại. Kiến nghị bị từ chối. Nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga, Đại biểu quốc hội, bèn đưa thẳng hồ sơ cho bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng, thế là Bộ này quay 180 độ, đổi ngay quyết định, phá lệ!

Năm 2005, trên một chuyến bay từ TPHCM ra Hà Nội, tình cờ tôi ngồi ngay bên cạnh một viên CA trực tiếp hỏi cung tôi trong vụ VKB. Quả đáng tội, hồi đó ông và tôi đã từng khá căng thẳng với nhau. Nay ông giữ một chức vụ quan trọng trong ngành an ninh. Ông vui vẻ chủ động bắt chuyện. Ông nói nhiều chuyện về văn nghệ, rồi bỗng bảo tôi thế này: “Tập thơ VKB hay thật! Anh phải viết một kịch bản phim về nó đi! Tôi biết chỉ có anh là viết được thôi!”

Lạy Trời! So với bao nhiêu người chịu oan khiên cho đến lúc chết mà chẳng ai biết đến, như ông Lê Nguyên Chí trong vụ NV-GP chẳng hạn, thì Hoàng Cầm và tôi thế là còn có phúc lắm! Nhớ lại lời ông CA họ Khổng phán khi tôi cãi rằng nhật ký của tôi để trong nhà, có lưu truyền đâu mà các ông bắt tội? Ông nói ngay: “May cho anh đấy! Anh mà lưu truyền thì đi tù không có ngày về”.

Kỷ niệm 25 năm ngày ra tù (30/10/1985 – 2010)

-                     
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Lê Hoài Nguyên nhớ nhầm là năm 1983

[2] Tôi chỉ còn nhớ vài đoạn, đại khái như sau:

…Các anh bảo chúng tôi

Đi chiến đấu cho ngày mai tươi đẹp

Chúng tôi đi

Vì không sợ chết

Chúng tôi chết

Vì sợ sống hèn

Nhưng sẽ ra sao cái ngày mai ấy?

…Chúng tôi đấy

Đều ngoan ngoãn cả

Anh vừa lòng chứ ạ?

Vâng, chúng tôi cứ khoanh tay ngoan ngoãn ngồi nhìn

Sự nặng nề ngu độn của các anh

Cứ chầm chậm dìm con tàu xuống biển


Thẻ:HOÀNG CẦM, HOÀNG HƯNG
No comments yet... Be the first to leave a reply!
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

Đọc "tin văn" sáng nay, tôi đã khóc, khóc rất nhiều. Khóc cho người còn sống. Khóc cho người dưới mộ. Khóc cho một thời kỳ ấu trĩ, mông muội, để gây oan khuất cho hiền tài...Mong rằng lịch sử văn học nước nhà không bao giờ lặp lại bánh xe đổ như thế nữa...
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

TÌNH YÊU
                                                                            Tản văn của Phùng Hải Yến

           Khi tiếng khóc chào đời cất lên, sinh linh bé bỏng nào biết bao người chờ đón sự xuất hiện của nó.Từ ánh mắt mệt mỏi mà lấp lánh niềm vui của mẹ, từ nụ cười bừng sáng trên nét mặt lo âu của bố tới thái độ ân cần , niềm nở của cô hộ lý…Lời chúc của bao người…Đó là tình yêu đầu tiên- tình yêu ngập tràn ấm áp- hành trang theo ta suốt chặng đường đời…
          Lớn thêm một chút, nó đến trường- lạ lắm và bỡ ngỡ trước những người bạn chưa quen. Rồi chỉ như một cái nháy mắt, nó bước khỏi cổng trường tiểu học. Chưa định hình được màu sắc, bóng dáng của nỗi nhớ tiếc, song bỗng thấy yêu bàn tay cô dịu dàng nắn nót chữ đầu tiên, yêu con đường nhỏ dẫn đến ngôi trường bé xíu. Yêu cả tiếng khóc nhè của con bé lớp trưởng mỗi khi có đứa nào trong lớp chưa học bài…
            Lớn khôn rồi nó nhìn lại sau lưng, thấy tình yêu mênh mông như đồng lúa, cánh cò đã mỏi vẫn thấy màu xanh trải ngút ngát chân trời…Lối ví von thật là như thể chẳng thể nào chính xác hơn.
            Từ khi nó bắt đầu biết suy nghĩ, tình yêu ấy in  sâu  trong  cả những trang văn thơ mang đậm hồn Việt.  Yêu quê hương đất nước qua trang sử hào hùng của dân tộc. mà cô truyền lại cho nó những buổi chiều lên lớp. Cũng từ đó nó thấy mình nhỏ bé làm sao, muốn cống hiến chút gì cho cuộc sống tươi đẹp này. Phải chăng lý tưởng đó bắt nguồn từ tình yêu?
              Bởi vì chỉ có tình yêu mới đủ sức vẫy gọi những tình yêu chở câu ca và tiếng hát ngọt ngào đến những miền xa xôi nhất.Ở nơi đó tình yêu cho đi mà không đòi hỏi nhận lại; không một chút đắn đo,suy nghĩ hay toan tính những lợi ích tầm thường cho những ngờ vực hay giấu diếm…
                Và nếu thế…Có thể gọi là  tình yêu?

                                                                           Điện Biên, 6/3/2003
                                                                         (Viết khi đang học lớp 12)
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

Tin văn đọc sáng 20/9/2010:Con đường nào cho Văn hóa đọc Việt Nam?


Con đường nào cho Văn hóa đọc Việt Nam?
Nguyễn Lệ Chi (giám đốc công ty sách Chibooks)




Là một  đơn vị xuất bản sách còn non trẻ, hình thành mới từ tháng 12.2008 tới nay với gần 30 đầu sách, phần lớn là sách văn học nước ngoài, Chibooks luôn mong mỏi được đóng góp một phần nhỏ bé nhằm làm phong phú thêm nền văn hóa đọc nước nhà. Nhưng thực tế văn hóa đọc nước ta đang ở tình trạng nào và làm sao để nâng cấp được nó vẫn là một câu hỏi nhức nhối không chỉ của riêng Chibooks và giới xuất bản.




Thực trạng mù  mờ



Có lẽ  chưa hề có một cuộc nghiên cứu chính thức nào ở nước ta về thực trạng Văn hóa đọc nước nhà để định vị và xác định những tác động cùng tầm ảnh hưởng của nó với xã hội. Cũng không có những công bố công khai về các số liệu xuất bản hàng năm như: số lượng các đầu sách đã xuất bản, số lượng của từng thể loại sách xuất bản, tỉ lệ phần trăm tăng hay giảm của từng thể loại sách xuất bản so với cùng kỳ năm trước, hoặc thống kê số lượng độc giả mua sách theo thể loại vì yêu thích hay vì nhu cầu… để mà so sánh, phân tích và giúp các đơn vị xuất bản từ đó mà căn cứ phân tích chiến lược xuất bản của mình trong năm tới hoặc rút ra những kinh nghiệm xương máu cho thành công hay thất bại của mình trong năm vừa qua. Trên trang web của Bộ Thông tin và Truyền thông cũng chỉ đưa ra những số liệu thống kê hết sức vắn tắt về tình hình xuất bản như:




(Mic.gov.vn) -

Nguồn: Cục Xuất bản

Về Xuất bản:

Theo thống kê  lưu chiểu, đến ngày 30/11/2009 toàn ngành đã xuất bản được:
- Về sách: 20.601 cuốn với 196.325.141 bản, đạt 111% về cuốn, 76% về bản so với cùng kỳ năm 2008.
- Về văn hóa phẩm: 804 loại với 15.953.000 bản, trong đó có 320 mẫu lịch với 11.700.000 bản đạt 76,4% về bản so với năm 2008.



Với những con số quá khô khan và sơ lược như vậy, thật khó có thể cung cấp nhiều những hỗ trợ tham khảo thông tin cho cả độc giả lẫn các đơn vị xuất bản, đặc biệt là các đơn vị xuất bản tư nhân vốn là những nơi khan hiếm thông tin tổng kết chung trong ngành. Bên cạnh đó, báo chí truyền thông đăng tin bài về thực trạng của ngành xuất bản cũng không có số liệu chính xác và đầy đủ, chủ yếu là theo số liệu của một vài đơn vị trong ngành cung cấp và viết theo cảm nhận chủ quan hoặc dựa theo ý kiến của một số người làm trong ngành xuất bản, chưa có con mắt bao quát của toàn ngành và toàn thực trạng văn hóa đọc của xã hội.



Quay lại với câu hỏi thực trạng văn hóa đọc của nước ta hiện nay ra sao? Phát triển đa dạng trăm hoa đua nở với rất nhiều đầu sách và thể loại sách mới mỗi ngày. Đó là một điểm mừng và đáng ghi nhận, đánh dấu sự phát triển mỗi ngày của ngành xuất bản. Có cung mới có cầu, nếu người mua không quan tâm nhiều tới sách, ắt hẳn dòng sản phẩm này cũng không phát triển và sinh sôi đa dạng hàng ngày tới vậy. Ngày càng nhiều có các tác phẩm mới của nước ngoài được các đơn vị xuất bản trong nước mua bản quyền và chuyển thể sang tiếng Việt. Điều này giúp độc giả trong nước có điều kiện bước thêm trên cây cầu văn hóa và tri thức nối với các nước bạn. Ngày càng nhiều sách mới của các tác giả Việt Nam được ra mắt thị trường, được dịch ra nhiều thứ tiếng và được đưa đi ra thị trường nước ngoài, đánh dấu sự sáng tạo cá nhân không ngừng tăng cùng sức lan tỏa văn hóa Việt Nam ra nước ngoài qua sản phẩm sách. Tuy nhiên nếu hỏi thực trạng hiện nay đáng mừng hay đáng lo, xin thưa rất mù mờ để đánh giá và đưa ra những nhận xét đúng. Bởi nhìn chung nếu dạo quanh thị trường sách, tuy đa dạng nhưng không có số liệu thống kê cụ thể, người mua cứ mua một cách tự phát, người sản xuất cũng sản xuất tự phát theo hướng chủ quan mà mình tự cho là đúng. Không có công cụ đo lường thị hiếu và nhu cầu của độc giả ở những lứa tuổi khác nhau, không có “phao cứu trợ” từ phía số liệu phát hành để bám víu mà định lượng, đong đếm, để nhận xét về mức độ mừng hay lo về các con số tiêu thụ sách trên thị trường.



Tuy nhiên theo ý kiến chủ quan nhìn nhận của riêng tôi, tôi nhận thấy tuy thị trường sách đa dạng và phong phú, người Việt Nam có dần thói quen đọc sách hơn cùng với điều kiện kinh tế ngày một cải thiện, song văn hóa đọc của nước ta chưa cao, thậm chí còn ở mức độ thấp, xét về mặt bằng chung trong xã hội. Rất nhiều đầu sách bán chạy thường chỉ có tính chất giải trí rất thông thường, không mang lại nhiều về các giá trị tinh thần hoặc kiến thức. Các sách có giá trị lớn, có giải thưởng lớn trên quốc tế lại thường bị xếp xó, tồn kho và bán giảm giá triệt để, khiến không ít đơn vị làm sách phải đau xót và dần dà phải chấp nhận chạy theo xuất bản dòng sách giải trí phục vụ nhu cầu của đông đảo độc giả nhằm đảm bảo độ an toàn trong kinh doanh. Điều này về lâu dài dễ tạo nên một nền văn hóa đọc giải trí và bình dân.



Giải  pháp phải từ gốc rễ




Để nâng cao văn hóa đọc của nước nhà, trước hết cần tìm tới gốc rễ của nó để chăm chút, tưới tắm, giúp cho cái rễ đó chắc khỏe, trụ mãi với thời gian. Có như vậy rễ cây mới tiếp tục hút nhựa sống nuôi những cành lá xum xuê bên trên. Nói một cách đơn giản rằng muốn nâng cao văn hóa đọc, trước hết phải xây dựng văn hóa đọc và xây dựng hạ tầng cơ sở cho văn hóa đọc. Việc xây dựng này xin đừng chỉ vứt riêng trách nhiệm cho những người làm xuất bản. Không phải cứ in ra nhiều sách là nâng cao được văn hóa đọc. Chúng tôi-những người làm sách- chỉ là một phần rất nhỏ cung cấp cho các bạn-người đọc- công cụ để tiếp cận và nâng cao văn hóa đọc của chính mình. Hãy nhìn nhận một cách công bằng rằng việc xây dựng văn hóa đọc phải là ý thức chung của toàn xã hội, với mỗi con người, mỗi gia đình, mỗi thế hệ, mỗi đơn vị cơ quan, mỗi chính quyền, mỗi thời đại. Con người khi mới sinh ra như một tờ giấy trắng, cũng giống như một cái rễ non yếu ớt. Nếu chúng ta hình thành được, xây dựng được văn hóa đọc ngay tại gia đình, bố mẹ chịu khó mua sách vở về đọc cho con cái nghe trước khi đi ngủ hàng ngày, dần dà tự tập cho con thói quen đọc sách thì đứa trẻ sẽ lớn dần cùng sở thích đọc sách được bồi dưỡng và phát triển theo năm tháng. Cái rễ non mới gặp điều kiện thuận lợi mới cắm sâu trong đất, hút lấy sức sống mà lớn dần. Song song với việc đó, nhà trường phải xây dựng và hướng dẫn cho trẻ tiếp cận với văn hóa đọc qua những biện pháp sau: tập cho chúng ý thức đọc hàng ngày qua việc đọc diễn cảm hoặc kể chuyện trên lớp; xác định và phân loại cho trẻ về mục đích đọc (theo nhu cầu, sở thích, hay phong trào, hay cần nâng cao kiến thức đi học, hoặc do tò mò muốn tìm kiểu thêm…)…



Thầy cô nên khuyến khích cho các em đọc thêm các giáo trình, sách tham khảo mở rộng kiến thức tự nhiên cho trẻ. Các nhà trường (từ cấp 1 tới đại học) cần mở rộng các thư viện miễn phí cho học sinh với nhiều đầu sách phong phú phù hợp với lứa tuổi, ngoài giáo trình học, để thư viện trở thành một sân chơi được yêu thích, chứ không chỉ đơn thuần chỉ là nơi hành xác lo chạy đua trước các kỳ thi. Các đơn vị cơ quan, đặc biệt là các cơ quan lớn như cấp Vụ, Cục, các tập đoàn lớn… nên dành quỹ xây dựng các thư viện nhỏ miễn phí cho cán bộ công nhân viên trong cơ quan, để việc đọc sách trở nên dễ dàng hơn đối với cả những người không có điều kiện thuận lợi về kinh tế hoặc eo hẹp về thời gian đi lại mượn sách ở các thư viện lớn… Việc xây dựng các thư viện chuyên ngành này mang giá trị tích cực nhiều mặt: vừa cung cấp sách vở tài liệu chuyên ngành mà cơ quan đó đang làm, vừa cung cấp những kiến thức xã hội khác bổ sung thêm từ sách vở tham khảo. Những cán bộ công nhân viên được hưởng quyền lợi mượn sách từ thư viện của cơ quan mình sẽ cảm thấy gắn bó thiết tha và có tình cảm hơn với nơi công tác. Một khi việc đọc sách được phổ cập rộng rãi từ nhỏ tới lớn, hình thành và phát triển theo cả một chặng đường dài và cả quãng thời gian sống, con người mới phát triển và định hình được văn hóa đọc cho cá nhân mình. Từ đó mỗi người sẽ tự phân hóa, chọn lọc dòng sách mà mình cần và thấy phù hợp với bản thân qua từng giai đoạn cuộc sống. Lúc đó tự bản thân mỗi người sẽ coi việc đọc như một nhu cầu tất yếu hàng ngày như việc ăn cơm, uống nước.



Song song với việc xây dựng cơ sở hạ tầng của văn hóa đọc, chúng ta cũng cần phải xây dựng môi trường trong sạch và lành mạnh cho văn hóa đọc phát triển. Trong đó, các nhà quản lý chuyên ngành cấp quốc gia phải nhanh chóng lập ra một lộ trình cho việc xây dựng và phát triển văn hóa đọc cả nước theo những chặng đường lớn 10-20-30 năm/lần, tuyệt đối không để phát triển tự phát hoặc theo những kế hoạch ngắn hạn một vài năm, thực thi theo kiểu đối phó và hài lòng với những con số nhỏ lẻ tuy tăng trưởng so với năm trước. Để từ đó các ban ngành mới thống nhất đường hướng phát triển, vạch ra những phương án tối ưu để nâng cao chất lượng sản xuất mà cụ thể ở đây là sản phẩm sách. Làm sao để sách đến với độc giả đa dạng hơn, phong phú hơn, luôn cập nhật được những kiến thức mới nhất của nhân loại trên toàn thế giới? Làm sao để các đơn vị xuất bản sống được tự tin và đàng hoàng bằng nghề, chỉ chuyên tâm làm sách mà không phải lo ngại đối phó với nạn sách lậu, sách giả, sách không bản quyền, không phải đau xót hoặc tuyệt vọng khi thấy sản phẩm của mình bị đánh cắp trắng trợn? Chỉ khi mọi quyền lợi của người làm sách được đảm bảo như: đảm bảo kinh tế sản xuất, có vị thế xã hội, được tôn trọng và sánh ngang vị trí như các ngành nghề khác… thì họ mới chuyên tâm làm ra các sản phẩm hay, sản phẩm đẹp, chất lượng tốt, nội dung chọn lọc.



Chính phủ cần đưa ra những biện pháp cứng rắn hơn nữa trong việc xử lý những sai phạm phát hành dẫn đến hậu quả gây thiệt hại nghiêm trọng cho các đơn vị xuất bản như: cương quyết tịch thu và tiêu hủy sách giả, phạt nặng gấp 200% giá trị lô hàng lậu, hàng giả bị phát hiện, cương quyết tịch thu giấy phép kinh doanh của các đơn vị phát hành, các cửa hàng sách sau khi có chứng cứ kinh doanh hàng giả, hàng lậu từ lần phát hiện thứ 2, mạnh tay dẹp các chiếu sách vỉa hè, vừa mất mỹ quan đường phố vừa hạ giá trị sách, vừa là nơi dễ dàng tiêu thu sách giả, sách lậu khó kiểm soát… Đồng thời phải tích cực tuyên truyền cho người dân để nâng cao ý thức bảo vệ sách thật, sách bản quyền, phân biệt được sách giả và sách thật, phải coi sách như một sản phẩm đầy đủ giá trị như các sản phẩm tiêu dùng khác và người tiêu dùng sẽ bị thiệt hại nặng nếu sử dụng hàng giả, hàng nhái kém chất lượng.


Văn hóa  đọc chỉ phát triển khi có môi trường phát triển và môi trường đó chỉ có khi con người có ý thức xây dựng nên và học cách bảo vệ nó dài lâu. Hãy xây dựng và bảo vệ văn hóa đọc từ bây giờ, đó chính là tương lai của cả một thế hệ con cháu bạn sau này./.


(Nguồn:Phongdiep.net)
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

Tin văn đọc sáng 21/9/2010:    
             NGƯỜI ĐÀN BÀ “DẠI YÊU”TRONG THƠ ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN

                                            Lê Hồ Quang
                                    Khoa Ngữ văn – Đại học Vinh

1. Có hẳn một tập thơ của Đoàn Thị Lam Luyến có tên là ... Dại yêu. Có cả một tập hợp chân dung những người đàn bà “dại yêu” trong thơ chị: xưa là  Mỵ Châu, Xúy Vân, Thị Mầu, Thúy Kiều, Hồ Xuân Hương...; nay là người đàn bà “lỡ chồng” với đứa con mang họ mẹ, một người bạn thơ “càng say càng gặp tình vờ”, một người em gái với đời riêng lấy “cái thất tình làm vui”... Và thơ chị nhắc đến rất nhiều những cả tin, dại khờ, nông nổi... của chủ thể trữ tình, một người đàn bà vốn “đa tình liền với đa đoan/ Tơ duyên đã nối lại càng nối thêm”... Thế nên, không hề quá lời khi ta nói rằng người đàn bà dại yêu là một hình tượng rất nổi bật trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến. Đấy là một cách khái quát mộc mạc, dân giã, pha chút trào lộng nhưng xác đáng về những người phụ nữ có bản năng yêu đương sôi nổi, bất chấp mọi ràng buộc cũng như thói tục thông thường, và như một tất yếu, thường có số phận lỡ làng, bi đát... Vô tình hoặc cố ý, những nét “đặc tả” hình tượng này khiến những ai từng biết Đoàn Thị Lam Luyến không khỏi liên tưởng tới tiểu sử của chính tác giả. Nhưng tôi nghĩ, đấy không đơn thuần chỉ là kết quả của sự “giãy bày”, “bộc bạch” tâm tư nhà thơ, (dù cảm hứng này khá đậm nét trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến và chính nó cũng đã góp phần tạo nên vẻ nồng nhiệt lạ lùng của thơ chị). Có thể nói, hình tượng người đàn bà dại yêu ấy còn là một cách để nhà thơ tự ý thức về chính cuộc đời mình, và rộng ra, là về cuộc đời và số phận của người phụ nữ hiện đại. Đó là một câu chuyện mang sắc thái bi kịch nhưng điều đáng nói hơn, đáng để cho ta suy ngẫm hơn, không chỉ nằm ở cái tình huống bi kịch (cũng khá phổ biến trong đời sống và văn chương) mà chính là ở cái thái độ và cách ứng xử của con người trước bi kịch ấy.  



2. Trong một cái nhìn có tính “tổng kết”, sự “dại yêu” của người đàn bà trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến được định danh qua một loạt tính từ: dại dột, cả tin, ngộ nhận, yếu mềm, say, dại, điên... Tác giả giãi bày rất thực thà về sự cả tin, khờ khạo của người – đàn – bà – dại – yêu này: Ngoài bốn chục chưa khỏi điều non nớt/ cả tin nghe, cả tin nói, cả tin cười (Châm khói); Chị cũng nhận thấy sự mơ mộng, đa cảm, thiếu thực tế  ở người đàn bà này như một điểm yếu khó khắc phục: Quen sống với mộng mơ/ Tim tôi đầy vọng ước/ Chẳng yêu cây trên bờ/ Chỉ say tình dưới nước (Điểm hẹn)... Dĩ nhiên, có lúc chị cũng tự biện luận: Em không là thánh thần/ Mới nhiều phen nông nổi/ Khi đã dấn thân yêu/ Biết đâu mà lọc lõi (Em không là thánh thần); nhưng rốt cục, nhà thơ vẫn thấy sự “dại dột” ấy như là một bản tính ăn vào máu mình, khó lòng cải đổi: Bếp thoắt tro, thoắt lửa/ Biển thoắt đầy thoắt vơi/ Lại dễ dàng thổn thức/ Lại sẵn sàng khơi vơi (Tuổi bốn mươi)...
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

(Đọc tiếp Tin văn)

Khao khát tình yêu, đắm đuối trong những ảo tưởng tự tô vẽ, ở người đàn bà này, hình ảnh người tình luôn được “thiêng hóa”: Anh đến như trời sai đến/ Em không giữ nổi phép màu/ Như có bàn tay định mệnh/ Bàng hoàng ánh mắt giao nhau (Lời anh trên biển)... Nồng nhiệt và tự tin đến ngây thơ, bất chấp những cảnh ngộ thực tế, người đàn bà ấy sẵn sàng cao giọng “thách thức” với mọi thử thách khắc nghiệt nhất của đời sống: Gian khổ hay cách trở/ Thương nhau thêm bội phần/ Và với em khi đó/ Tình yêu là phép nhân (Phép nhân)... Và với tất cả sự đa cảm và vụng dại, chị sẵn sàng “thế chấp” tất cả niềm tin vào tình yêu, cho dù đó chỉ là tình cảm từ một phía và không hề được đáp đền: Dẫu chẳng được hẹn hò/ Em cứ đợi, cứ say/ Ngâu có xa nhau, Ngâu có ngày gặp lại/ Kim – Kiều lỡ duyên nhau/ Chẳng thể là mãi mãi/ Em vẫn đợi/ Vẫn chờ/ Dẫu chỉ là huyền thoại một tình yêu! (Huyền thoại)...



Có thể thấy đây cũng là điểm gần gũi giữa nhiều tâm hồn phụ nữ: sống nghiêng về cảm tính, khi yêu, họ thường hết mình, không chút tính toán, so đo và những ngộ nhận, nhầm lẫn xuất phát từ sự “trái tim nhầm chỗ để trên đầu” ấy là một điều rất dễ xảy ra. Ta có thể bắt gặp tiếng thơ đầy khát khao dâng hiến nhưng cũng đầy những ám ảnh buồn bã trong thơ của nhiều tác giả nữ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Phạm Thị Ngọc Liên, Lê Thị Mây... Với Đoàn Thị Lam Luyến, thơ cũng là một cách để chị “tự nghiệm” về cuộc đời với không ít xót xa. Có điều, trong cách “tự nghiệm” của người đàn bà “dại yêu” ấy vẫn phảng phất một nụ cười giễu cợt và điều này tạo nên một sắc thái rất riêng trong những câu thơ tình của chị: chính trong cách nói về sự “mù quáng” ấy lại thể hiện rất rõ sự tỉnh táo của con người.



3. Những ảo tưởng có thể đem lại ít nhiều thi vị, ngọt ngào trong cảm xúc, nhưng chính đó lại là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ tất yếu khi con người buộc phải đối diện với thực tế. Và khi đó, thay vào cái nhãn quan lãng mạn hóa ban đầu là một cái nhìn trực diện vào đời sống với một cảm hứng “phản tỉnh” ráo riết. Ta thấy điều này được đánh dấu bằng một loạt động từ: biết, nhận biết, nhận ra, thức tỉnh, ... ; một loạt tính từ: ngậm ngùi, đau khổ, buồn nản, tàn tạ, tan nát, mệt mỏi, cô đơn, dại dột, đơn lẻ, đắng cay, trái ngang, dang dở... Và rất nhiều những câu hỏi, những lời tự vấn hoang mang, mệt mỏi: Sao ta cứ lầm hương/ Với mùi thơm của lá/ Lửa tình ta cố nhen/ Khi tim người lạnh giá? (Trả ta về cô đơn); Em ở hiền/ Em có ác chi đâu/ Mà trời lại xui anh bắt đầu tình yêu với người con gái khác? Có phải rượu đâu mà chờ rượu nhạt/ Có phải miếng trầu/ Đợi trầu dập, mới cay?(Huyền thoại); Ta muốn ôm cả đất/ Ta muốn ôm cả trời/ Mà sao không yêu trọn/ Trái tim một con người!? (Gửi tình yêu)...



Trong một con mắt tỉnh táo, cái tình yêu được tô vẽ với bao “ảo sắc thiên đường” đã mất đi ánh hào quang giả dối của nó. Người đàn bà phải đối diện với sự thật đổ vỡ, dối lừa như “những nhát roi vào tim/ Cứ bầm bầm máu ứa”. Và cái tình yêu đầy ảo tưởng giờ đây chỉ còn lại những chua chát, bẽ bàng cùng cực: Càng say càng gặp tình vờ/ Non non nước nước lập lờ lứa đôi (Yêu để cho thơ); Đa tình liền với đa đoan/ Tơ duyên cứ nối lại càng nối thêm (Tích tịch tình tang)... Tỉnh mộng, người đàn bà nhận ra cái tình yêu mà mình đắm đuối “cá cược” cả cuộc đời mình vào đó, thực chất chỉ là một hành động mù quáng, không hơn: Em đương lấy sóng làm cầu/ Khơi xa làm bến, đáy sâu làm thuyền (Em gái)...



Dĩ nhiên, trong cái nhãn quan ấy, hình tượng người tình cũng sẽ mất đi vẻ hào nhoáng ban đầu. Giờ đây, người đàn ông hiện lên chân thực hơn, và cũng ...tầm thường hơn. Đấy là một kẻ ham vui, yếu mềm và dễ sa đà: Khi em chờ mỏi mắt rồi/ Anh còn ở mãi phương trời nào đây/ Nơi nào anh cũng dễ say/ Nơi nào cũng sẵn vòng tay đợi chờ (Nhớ Hồ Xuân Hương)...; Đấy cũng là một con người nhạt nhẽo, hèn đớn, ngược hẳn với cái say đắm đến quyết liệt của người đàn bà: Em đam mê đến độ hững hờ/ Anh chầm bập như là yêu thật vậy/ Nhưng em biết em chỉ là trang giấy/ Lúc mềm lòng anh rắp vẽ vu vơ (Khách mời)... Thậm chí, lừa dối và bạc bẽo: Dù hóa trang gương mặt mình khéo đến thế nào chăng nữa/ Anh vẫn là một Thúc Sinh Thôi/ Kỉ niệm Lâm Chuy, Kiều có phải báo ân đền nghĩa/ Anh cũng đã đem em đi bỏ chợ người (Kiều có ở trong em)...

Rõ ràng, trong cái nhìn này, hình tượng người đàn bà mạnh mẽ, chủ động bao nhiêu thì người đàn ông lại bạc nhược, yếu đuối, thiếu bản lĩnh bấy nhiêu. Song thực ra, sự mạnh mẽ này dường như không phải “chủ đích” của người đàn bà, chẳng qua khi rơi vào tình cảnh ấy,  chị buộc lòng phải gồng mình lên để chịu đựng, để gánh vác. Cái chao chát đáo để chỉ là vỏ ngoài, nhằm để che đầy một tâm hồn yếu đuối, đa cảm và dễ thương tổn bên trong. Và điều đó, tôi nghĩ, xét đến cùng, lại là một nỗi đau khác.



4. Nhưng nguyên nhân của những bi kịch ấy là ở đâu? Dù cảm hứng phân tích, lí giải không phải là cảm hứng nổi bật trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến, nhưng rõ ràng chị rất có ý thức “truy tìm” lời giải đáp cho câu hỏi này. Bởi vì, trước hết, đó là câu hỏi của chính đời chị.



Và lí do trước hết, là vì mình, vì sự ảo tưởng, non nớt, cả tin... của mình, tóm lại là vì mình...dại. Nhưng trong một cái nhìn khái quát, nhà thơ còn thấy một nguyên nhân nữa, chi phối những khổ đau trong cuộc đời chị, ấy là... số phận. Trong thơ mình, Đoàn Thị Lam Luyến nhắc nhiều đến số phận, duyên phận, số trời, mệnh trời, phận trời... Ngẫm lại phần đời đã trải với bao cay đắng, tác giả đã phải thốt lên: Cái phận trước, cái duyên sau/ Nào ai tính được dài lâu với trời? (Chồng chị chồng em); Mẹ sinh em đêm hay ngày/ Mà sao như số trời đày thế gian? (Tích tịch tình tang)... Là số phận, cho nên không “có số được vàng”, là số phận cho nên “duyên thiên cách trở muộn màng nhau”, cho nên “tơ duyên đã nối lại càng nối thêm”... Số phận, trong triết lí dân gian, như một sợi dây trói buộc vô hình mà con người khó lòng vượt ra được. Nhưng với Đoàn Thị Lam Luyến, một người đàn bà hiện đại, số phận còn mang ý nghĩa như một thử thách để qua đó con người bộc lộ được bản lĩnh và nhân cách sống của mình. Dẫu không hề muốn, nhưng khi đứng trước những éo le của cảnh ngộ, những éo le mang tên “số phận”, người đàn bà ấy không trốn tránh, hay chỉ biết than thân trách phận, mà còn biết can đảm đối diện và vượt lên bằng một thái độ ứng xử đầy mạnh mẽ và chủ động.



Ta có thể thấy những điều này rất rõ trong bài thơ Chồng chị, chồng em. Bài thơ được cấu tứ trên những tương quan đối lập: xưa/ nay; gần / xa; phận/ duyên; buồn/ vui; chồng chị/ chồng em.... Đấy cũng là cảnh ngộ tình duyên đầy éo le. Người đàn bà luôn khát khao tìm kiếm một tình yêu lí tưởng, “một tình yêu chỉ riêng dành cho tôi” nay lại phải đứng trước tình thế: “Xưa thì chị, nay thì em” và cái sợi dây “tơ hồng” của duyên phận ấy thực ra cũng chỉ là “nối thêm”. Cái sự thật đầy ngậm ngùi ấy được diễn tả ngắn gọn trong một câu lục bát với giọng điệu thật tự nhiên và điềm đạm:



                       Xưa thì chị, nay thì em

Phải duyên chồng vợ nối thêm tơ hồng



Phải chăng, chìa khóa hóa giải nỗi niềm lỡ dở và dễ gợi sự chạnh lòng ấy nằm trong chữ “duyên” – “phải duyên”? Người đàn bà đã nhìn nhận sự gặp gỡ ấy như là một sự tình cờ tốt đẹp của số phận, dẫu muộn mằn và không đợi mà gặp. Nhưng đấy chỉ là một cách nói. Thực tế, cảnh ngộ vẫn đầy những éo le: Được lúa, lúa đã gặt bông/ Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa;... Vẫn đầy những bất trắc, lo âu: Tình yêu một mất mười ngờ/ Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau... Điều cơ bản khiến con người ấy có thể vượt lên tất cả những thử thách của hoàn cảnh là “biết” - hiểu theo nghĩa là sự thấu hiểu, cảm thông và chấp nhận. Câu thơ “Biết thì ruộng hóa cũng nên mùa màng” mang ý nghĩa như một triết lí nhân sinh ngắn gọn mà sâu sắc. Không còn những ảo tưởng bồng bột thời trẻ tuổi về một tình yêu duy nhất và tuyệt đối, những dang dở, đắng cay mà người đàn bà đã trải qua suốt quãng đời dài khiến chị biết vượt lên sự ích kỉ, hờn ghen thông thường, cả những miệng tiếng dị nghị của thói đời, để chắt chiu, trân trọng cái hạnh phúc trong hiện tại, trong cả sự không trọn vẹn của nó:



Đã từng hai mảnh tay không

Kể chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người

Dở dang suốt nửa cuộc đời

Bỗng dưng hiện một mặt trời trong nhau



Ta thấy người đàn bà trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến là một con người từng trải và thực tế. Cái mà chị khao khát là cái hạnh phúc có thực, cái ái ân có thực của cuộc đời bụi bặm và lắm hệ lụy nhưng gần gũi này chứ không phải ở một thiên đường cao xa và lí tưởng nào. Sự “thản nhiên” trong câu thơ “Thản nhiên em nhận bã trầu về têm”, thực chất là một sự lựa chọn chủ động trong một tình thế bị động. Khi đã trải qua bao thăng trầm, được mất của đời người, người đàn bà ấy nhận ra rằng, tình yêu không chỉ là chuyện của mỗi một cá nhân, mà còn là chuyện của cuộc đời, của tình người. Cho nên, cho đi chính là được nhận lại. Những đau khổ dạy con người biết nhìn rộng hơn, biết độ lượng hơn, biết tha thứ và sẻ chia hơn. Cần thấy rằng sự tỉnh táo ở đây không phải là sự tỉnh táo của một đầu óc ráo riết duy lí là sự tỉnh táo của một tấm lòng trung hậu. Do đó, bài thơ nói về một cảnh ngộ dở dang, ngang trái nhưng người đọc lại nhận thấy sự vững vàng và nhân ái của một tâm hồn; bài thơ nói đến sự chua xót và đau đớn, nhưng người đọc lại nhận ra một sự thấu hiểu và vun đắp đầy trách nhiệm. Nói cách khác, bài thơ nói về một cảnh ngộ bi kịch nhưng cũng ở đó, bi kịch đã được hóa giải bởi bản lĩnh và thái độ ứng xử đầy nhân văn của con người.
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

(Đọc tiếp tin văn)


5. Dường như, thơ với Đoàn Thị Lam Luyến là tất cả những trải nghiệm đời sống chân thực nhất của chị. Về điểm này, thơ Đoàn Thị Lam Luyến rất gần với thơ Xuân Quỳnh. Cũng như Xuân Quỳnh, thơ Đoàn Thị Lam Luyến luôn khao khát hướng đến một thứ hạnh phúc của đời thường và có thực chứ không phải trong cõi lí tưởng cao xa nào. Do đó, ta gặp trước hết (và phổ biến) trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến  là giọng giãi bày tâm sự. Nhưng sự giãi bầy này không chỉ dừng lại ở những cung bậc thủ thỉ, nhỏ nhẹ. Nhu cầu được “trút xả” tâm sự khiến nhiều lúc, tác giả dường như không chú ý đến việc “làm thơ”, mà dường như chỉ chú ý đến việc nói cho “bõ hờn”, cho “hết nhẽ” những nỗi niềm nghẹn ứ trong lòng. Thành thử, lời thơ chị có lúc rất mộc mạc, đơn giản, giống như lời nói thường, nhưng vẫn đem lại sự xúc động bởi sự chất chứa, dồn nén trong đó (Thành phố không bao giờ từ biệt là một ví dụ tiêu biểu). Nhưng nếu như thơ Xuân Quỳnh thường nói đến một mái ấm gia đình ấm áp, sum vầy thì thơ Lam Luyến nói nhiều đến sự lỡ dở, đắng cay, ngang trái. Cho nên, song hành cùng với giọng điệu giãi bày tâm sự ấy là giọng tự thán chua xót. Giọng điệu tự thán này trỗi lên trong những bài thơ mang cảm hứng thân phận, số phận đàn bà (Gửi tình yêu, Kiều có ở trong em, Bóng người phía trước, Số được vàng,...) Nhưng cung bậc giọng điệu thể hiện đậm nét cá tính của tác giả này là giọng châm biếm, giễu cợt. Nó thể hiện một cái nhìn đầy tỉnh táo và khá ...đáo để của người đàn bà này về cuộc đời và con người. Trước hết là tự giễu. Việc vẽ chân dung của mình như một kẻ “dại yêu”, một kẻ “không có số được vàng” hay “làm nhà trên lưng cá voi”... là kết quả của một cái nhìn trào lộng mà chua chát ấy.



Chính trong cách nhìn này, chân dung người đàn ông nhiều khi không chỉ tầm thường mà còn khá hài hước. Đây là chân dung của một “chiến binh” tình ái: Anh đã về đấy ư/ Dửng dưng và đói khát/ Khi đã ở bên em/ Sao vẫn còn biếng nhác? Ôi, đúng thực anh rồi/ Đâu có gì đổi khác/ Dẫu chẳng còn thanh gươm/ Và không còn manh giáp! (Chiến binh)... Thậm chí, trong cái nhìn giễu cợt và đáo để của tác giả, người đàn ông, “vốn yếu mềm và biếng nhác”, được ví như một “miếng mồi của chiến tranh man rợ diệu kì” – cuộc “chiến tranh tình ái”: Em đã đoạt anh từ tay người đàn bà kia/ Giống như người đàn bà kia/ Đoạt anh từ tay người đàn bà khác.../ Ghen như sôi và giận như điên (Chiến tranh)...



Trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến, sự đan xen giữa các giọng điệu chính là một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của thơ chị. Đặc biệt, nó góp phần khắc họa nên chân dung của chủ thể trữ tình: một người đàn bà đa đoan, sắc sảo và “đáo để”, nhưng mặt khác, lại đầy đa cảm, yếu đuối, dễ thương tổn...



6. Hình tượng người đàn bà “dại yêu” càng được khắc họa rõ nét qua một lối viết tự nhiên và mộc mạc. Nhà thơ sử dụng chủ yếu các thể thơ truyền thống: lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ... Tuy nhiên, chị thành công nhất ở thể thơ lục bát. Ở thể thơ này, chị có nhiều bài hay, hàm súc và nhuần nhị (Chồng chị, chồng em, Trên lưng cá voi, Bóng người phía trước, Tích tịch tình tang, Em gái...) Tác giả cũng thường sử dụng những cách nói của ca dao, thành ngữ, tục ngữ hoặc những cách nói thông tục trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, gợi nhiều ý vị dân gian, ví dụ:



- Được lúa, lúa đã gặt bông

Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa

- Gần được ấm, xa được êm

Biết thì ruộng hóa cũng nên mùa màng

- Cái giần vục phải cái sàng

Xui cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau

- Chị thản nhiên mối tình đầu

Thản nhiên em nhận bã trầu về têm

v.v.



Đặc biệt, như đã nói trên, trong thơ chị xuất hiện khá nhiều lần hình ảnh những người đàn bà “dại yêu” trong tâm thức truyền thống: Mị Châu, Xúy Vân, Thị Mầu, Thúy Kiều, Hồ Xuân Hương... Được soi chiếu từ lăng kính của một tâm hồn đồng điệu, hình tượng những người phụ nữ này hiện lên như những con người dám sống, dám yêu, dám hết mình vì tình yêu dù chung cục số phận của họ luôn là bi kịch. Đấy là hình tượng những người đàn bà vừa dân giã, nôm na, vừa mạnh mẽ, quyết liệt, vừa bản năng, nồng nàn, vừa ý thức tỉnh táo, vừa nhẫn nại, chịu đựng, vừa táo tợn, đáo để...Dĩ nhiên, những hình ảnh khách thể ấy cũng là sự phản chiếu đậm nét của hình ảnh chủ thể.



7. Tóm lại, người - đàn - bà - dại - yêu là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Đoàn Thị Lam Luyến. Như đã nói trên, nói đến sự “dại yêu” - như một đặc điểm nổi bật của hình tượng người đàn bà này – chính là nói một thứ tình cảm tự nhiên, mang tính bản năng mãnh liệt, không hề tính toán, vụ lợi. Và đó cũng một cách để khái quát hóa về những trái ngang, bi kịch mà người đàn bà “dại yêu” phải nếm trải cùng với thứ tình cảm mê đắm như là “giời đầy” của mình. Tuy nhiên, ta cũng nên nhớ rằng, trước hết, đây là cách mà Đoàn Thị Lam Luyến dùng để nói về chính mình. Cái sắc thái giễu cợt (tuy ẩn chứa không ít xót xa) bộc lộ rất rõ trong cách nói đó của chị. Chính sự tự giễu này cho người đọc nhận ra rằng, dường như sự “dại yêu” ấy ở người đàn bà Đoàn Thị Lam Luyến (và rộng ra, là giới nữ, nói chung), còn là một sự lựa chọn của họ, một sự lựa chọn như là bản năng nhưng xác quyết, bất chấp khổ đau, éo le, ngang trái... Với cách diễn tả giản dị, mộc mạc, đan xen tự nhiên giữa yếu tố trữ tình và tự sự, tác giả còn cho ta thấy ở người phụ nữ này một tấm lòng trung hậu, cởi mở với cuộc đời, dẫu trải qua nhiều đắng cay, đau khổ. Con người này không còn ngây thơ (hoặc cố gắng tỏ ra ngây thơ), ấy là một con người biết nhìn đời một cách thực tế, như nó vốn có, nhưng vẫn không ngừng cái mong muốn về một cuộc sống tốt đẹp hơn, như lẽ ra nó phải có. Chính vì vậy mà nó dẫn đến một điều tưởng chừng nghịch lí: khi nhận ra những “non dại” của mình ấy là khi con người đã tự biết “rút kinh nghiệm”, đã trở nên khôn ngoan hơn. Do đó, trong con mắt của một người đàn bà từng trải đang kiểm nghiệm lại những được mất đời mình thì cách sống, cách yêu ấy là ngây thơ, là ảo tưởng, tóm lại, là... dại! Nhưng trong con mắt của người - đàn –bà – làm - thơ thì bản thân sự “dại yêu” ấy cũng có một vẻ đẹp và ý nghĩa nào đó, đó là vẻ đẹp của sự chân thành và đa cảm trong một tâm hồn chưa bị cuộc đời làm cho trơ lì, chai sạn. Mặt khác, trong sự “dại yêu” ấy, như đã phân tích ở trên, người ta còn nhận thấy một nhân cách, một bản lĩnh mạnh mẽ, cứng cỏi của một người đàn bà dám yêu hết mình và dám chấp nhận trách nhiệm trước cuộc đời, trước số phận. Tính chất mới mẻ và hiện đại của hình tượng này bộc lộ rõ nét trong thái độ sống và cách ứng xử đó. Và có lẽ, đó cũng chính là điều cơ bản đã hóa giải sắc thái bi kịch trong hình tượng người - đàn - bà - dại - yêu của Đoàn Thị Lam Luyến.

                                                                                VINH, ngày 5/7/2010

                                            



Phongdiep.net
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

buithison

GỬI ANH!

Ngày ngày anh lặng lẽ
Vào đọc trang văn em
Không cần lời góp ý
Chỉ hiển hiện dòng tên

Vậy mà em vui lắm!
Nhìn đời thấy đẹp thêm
Bao nỗi niềm u uẩn
Cởi vứt ra ngoài thềm...

Em thấy đời đáng sống
Miệt mài viết ngày đêm
Muốn dâng đời cao rộng
Bao buồn, vui, nỗi niềm...

Ba ngày anh không đến
Trang văn em quạnh hưu
Chắc em viết yếu kém
Độc giả chưa mến yêu...

Thôi, viết ra giấy vậy
Bao giờ thấy  hài lòng
Mới  gửi lên  trên đấy
Bạn bè đến thăm đông...


Em nghĩ và làm thế
Anh thấy có nên không?
ƯỚC: vòng tay dài rộng bằng trời
Để ôm trọn vẹn muôn người mình yêu...
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 24 trang (235 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [5] [6] [7] [8] [9] [10] [11] ... ›Trang sau »Trang cuối