Thủy điện và báo cáo đánh giá tác động môi trường: Tin được tới đâu?
TTCT - Phía sau sự cố động đất liên tiếp ở khu vực thủy điện Sông Tranh 2 thời gian qua khiến người dân và chính quyền ở Bắc Trà Mi, tỉnh Quảng Nam luôn sống phấp phỏng, lo âu là một sự thật đầy tai tiếng về báo cáo đánh giá tác động môi trường.
Vậy các báo cáo đánh giá tác động môi trường liên quan đến thủy điện hiện nay đáng được tin cậy đến đâu và ai phải chịu trách nhiệm nếu đây là những báo cáo sai lệch, sao chép cẩu thả, thậm chí gian dối?
Dễ dàng thấy nhiều cánh rừng quanh đập Sông Tranh 2 đã bị cạo trọc, chỉ còn cây bụi nhỏ và cỏ dại - Ảnh: Lê Thanh Tuấn
Quy định rất rõ ràngTừ tháng 4-2011, Chính phủ đã ban hành nghị định số 29/2011/NĐ-CP quy định về đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC), đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và cam kết bảo vệ môi trường, quy định rất rõ rằng báo cáo ĐTM phải được thực hiện đối với 146 loại hình dự án khác nhau. Theo đó, tất cả dự án thủy điện với hồ chứa có dung tích từ 100.000m3 nước trở lên đều phải lập báo cáo ĐTM.
Thông thường các chủ dự án đều thuê một đơn vị tư vấn nào đó làm giúp báo cáo ĐTM theo kiểu đơn đặt hàng. Tất nhiên, không chủ đầu tư nào muốn có báo cáo ĐTM phản bác dự án mà họ muốn đầu tư, do vậy bên “làm thuê” ĐTM phải tìm cách viết một báo cáo thế nào để dự án của bên thuê được phê duyệt theo “định hướng” giông giống một kiểu như “dự án có gây tác động môi trường nhưng không đáng kể và có phương án giảm thiểu...”.
Sau đó, chủ dự án cầm báo cáo này lo tiếp khâu phê duyệt để có thể tiến hành xây dựng. Quy trình làm ĐTM của các dự án thủy điện hiện nay nói chung là không sai, nhưng chưa đủ chặt chẽ. Thực tế có nhiều báo cáo ĐTM làm rất sơ sài, thời gian khảo sát thực tế rất ngắn, số liệu bất nhất và rời rạc, tính toán khiên cưỡng và cẩu thả, tệ hại hơn là sao chép từ các báo cáo khác như trường hợp của dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A đã bị báo Tuổi Trẻ “lật tẩy” vào năm ngoái.
Cuối cùng, có vẻ như mọi dự án thủy điện cũng được phê duyệt với khẳng định thủy điện không có vấn đề gây nguy hại cho môi trường và xã hội. Tuy nhiên, thực tế sau một thời gian các dự án thủy điện đi vào hoạt động, hàng loạt vấn đề dần bộc lộ, có lẽ do khâu hậu kiểm các cam kết bảo vệ môi trường không được coi trọng và thực chất. Theo một báo cáo của Liên Hiệp Quốc, sau khi khảo sát các dự án làm đập thủy điện, chuyển dòng chảy của 227 dòng sông lớn nhất thế giới, các chuyên gia đã phát hiện hơn 60% hệ sinh thái các con sông này bị suy thoái.
Thực tế không như các báo cáo ĐTM...Hầu hết báo cáo ĐTM đều cố gắng làm giảm nhẹ việc rừng bị thu hẹp và tàn phá do hồ chứa nước hình thành từ các đập thủy điện. Trong báo cáo không tránh khỏi việc phải đưa ra diện tích rừng bị mất từ phần diện tích bị ngập nước và phần đất xây dựng nhà máy thủy điện.
Thực tế diện tích rừng bị mất bao giờ cũng cao hơn con số báo cáo do nhiều nguyên nhân mà báo cáo ĐTM cố tình bỏ qua: (1) phần đất rừng xung quanh hồ chứa bị mất dần do đất ở xung quanh hồ bị ngập nước, lầy hóa khiến cây rừng bị ngộp úng, xói lở và chết dần. Tỉ lệ chu vi hồ chứa trên diện tích mặt thoáng càng lớn thì phần diện tích xung quanh hồ bị mất càng lớn; (2) rừng bị mất do phải xây dựng nhiều hệ thống dẫn điện; (3) hồ chứa và đường thi công tạo thuận tiện cho lâm tặc chặt trộm cây rừng, săn bắt trộm thú rừng và vận chuyển lâm sản lậu khỏi lâm phần.
Trong cam kết bảo vệ môi trường, chủ dự án nào cũng hứa sẽ trồng bù lại phần rừng bị mất tại địa phương có dự án nhưng hội đồng thẩm định nhiều lúc “quên” đòi hỏi chủ dự án phải có bản đồ chỉ ra phần đất trống nào dự trữ cho việc trồng rừng đã được chính quyền địa phương ở đó xác nhận. Đến nay ở Việt Nam chưa có chủ dự án nào thực hiện trồng bù đủ số diện tích đất rừng mất và cũng chẳng cơ quan nào có trách nhiệm kiểm tra, xử phạt đúng mức việc “thất hứa” này.
Vấn đề vận hành hồ chứa là một bức xúc khác, đặc biệt ở các hệ thống sông có nhiều bậc thang thủy điện. Các báo cáo ĐTM thường khẳng định công trình sẽ tích nước vào mùa mưa để giảm lũ lụt ở hạ du và xả nước về xuôi vào mùa khô để gia tăng nguồn nước, giảm khô hạn. Thực tế nhiều câu chuyện “lũ chồng lũ” và “hạn gay gắt hơn vào mùa khô” do vận hành thủy điện ở miền Trung (như việc xả lũ ở sông Ba Hạ, sông A Vương, việc gây khô hạn nặng nề của thủy điện Đắk My 4) đã minh chứng ngược lại các lời khẳng định trong các ĐTM này.
Thiệt hại về giá trị môi trường cũng không được tính đủ khi các báo cáo ĐTM không ước lượng hết giá trị của tính đa dạng sinh học, thu hẹp, thay đổi địa bàn sinh sống và tồn tại các loài động, thực vật quý hiếm, các nguồn lợi thủy sản, phù sa và “hiệu ứng” hồ chứa lên hệ sinh thái sông ngòi và đất ngập nước trong lưu vực. Nhiều báo cáo ĐTM có đề xuất xúc tiến di dời các động, thực vật hoang dã đến nơi khác để bảo tồn. Đây gần như là một việc không tưởng và thực tế chưa có dự án thủy điện nào làm được chuyện này.
Việc phân tích kinh tế thường bỏ qua những tổn thất như mất sự tài trợ từ các tổ chức môi trường, có thể mất danh hiệu hay công nhận quốc tế (các di sản văn hóa - lịch sử, khu ramsar, khu bảo tồn sinh quyển...), mất cơ hội bán carbon từ rừng, giảm nguồn thu từ du lịch, thu hẹp địa điểm học tập - nghiên cứu, các sự cố phát sinh... Danh sách thiệt hại còn dài mà nhiều báo cáo ĐTM chưa thể liệt kê hết được.
Các báo cáo ĐTM dự án thủy điện thường hứa hẹn sẽ tạo nên sự an cư, cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng của cư dân tại chỗ, chủ yếu là dân nghèo, nông dân, người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên khi hồ chứa hình thành, nhiều làng mạc, nơi cư trú, nơi sản xuất của dân bị thu hẹp, người dân bị ép đến những khu định cư đầy khó khăn và bất trắc, cuộc sống rất bấp bênh, nhiều phong tục tập quán, văn hóa bản địa của người thiểu số bị mất, pha tạp.
Mời các bạn xem phần tiếp theoMở mắt thì chạy theo cảnh
Nhắm mắt thì chạy theo mộng.
(Ngọc Tuyền Hạo)