(phần tiếp theo)
Kỹ xảo đàm phán của Trung Cộng III. Tính chất đặc điểm đàm phán Trung CộngTừ phân tích các cuộc đàm phán trên, chỉnh lý tổng hợp lại, thì hành vi đàm phán của Trung Cộng co các tính chất đặc điểm sau:
Chuẩn bị đầy đủ.Xưa nay, Trung Cộng trước khi đàm phán đều chuẩn bị rất công phu, đầy đủ. Mao đã từng nói:”chúng ta đã cho phép đàm phán, là phải chuẩn bị một đầu óc tỉnh táo để đối phó với đối phương áp dụng chính sách Tôn Hành Giả chui vào bụng, cái quạt công chúa và yêu quái tác quái. Chỉ có chúng ta chuẩn bị đầy đủ về tinh thần, chúng ta có thể chiến thắng bất kỳ Tôn Hành Giả yêu quái tác quái nào”.
Bất cứ lúc thế yếu hay thế mạnh, Trung Cộng đều chuẩn bị kỹ lưỡng. Chung mà nói, bên ở vào thế mạnh là không muốn vào đàm phán, mà là một phương pháp vận dụng của thế yếu, làm cho bên mạnh bước vào bàn đàm phán.
Đàm phán Quốc-Cộng từ năm 1937 – 1949, Trung Cộng đều đưa ra chủ đề và phương án đàm phán. Như đàm phán năm 1937, Trung Cộng đưa ra 5 yêu cầu và 4 bảo đảm. Đàm phán Trùng khánh, Trung Cộng đưa ra 8 vấn đề (Hội nghị chính trị, Đại hội quốc dân, vấn đề tự do, Đảng chính quyền, thả chính trị phạm, vấn đề vùng giải phóng, quân đội, tiếp nhận đầu hang của Nhật). Ngoài ra Chu Ân Lai, Vương Nhược Phi còn đưa ra 11 phương án đàm phán. Tổng hợp các vấn đề này lại là tập trung vào tranh thủ quyền lực về chính trị và quân sự. Ngược lại, chính phủ Quốc dân không đưa ra phương án đàm phán nào, chỉ cho rằng Trung Cộng đưa ra vấn đề gì cũng được, nhưng lại bị Trung Cộng chỉ trích là thiếu thành ý. Lúc này chính phủ Quốc dân ở vào thế thủ không tấn công. Đàm phán năm 1949, Trung Cộng đồng ý khi đàm phán sẽ đưa ra 8 phương án, nhưng đến bàn đàm phán Trung Cộng càng đưa ra 8 khoản 22 điều. Rõ ràng, trước đàm phán Trung Cộng chuẩn bị rất kỹ càng.
Đàm phán Trung-Anh về Hồng Kông cũng vậy. Trước đàm phán đã điều chỉnh hệ thống lãnh đạo, lập Văn phòng công tác Hông Kông – Ma cao trong Quốc vụ viện, nâng cấp Ủy ban công tác Hông Kông-Ma cao lên đơn vị cấp tỉnh. Trước khi bước vào giai đoạn 2 đàm phán, sau khi Hứa Gia Đốn đến Hồng Kông từ điều chỉnh tổ chức, tranh thủ kinh phí nhân viên đến tranh thủ lòng người đều làm rất công phu. Đó đều là công việc chuẩn bị cho đàm phán.
Đàm phán về Ma cao cũng vậy, không vì Bồ ở vào thế yếu mà không chuẩn bị kỹ.
Trong đàm phán cấp Đại sứ Trung quốc với Mỹ, Vương Bình chỉ rõ là dưới sự chỉ đạo Của Chu Ân Lai, đã chuẩn bị các mặt:
1) Trang phục, để trân trọng tham gia hội nghị quyết định chuyên viên đoàn đại biểu đều may mỗi người một bộ Tôn Trung Sơn.
2) Định ra kỷ luật đoàn đại biểu. Bất cứ chuyên viên nào đều phải tuân thủ chế độ và kỷ luật của đoàn đại biểu.
3) Diễn thử trước khi đàm phán, để ứng phó các tình huống đều làm thử trước.
4) Phân công chuyên môn: Đối với công việc khác nhau gíao cho thành viên khác nhau đảm trách.
5) Lựa chọn đầu bếp: Lựa chọn 2 đầu bếp giỏi để phục vụ mời khách gây quan hệ tốt trong thời gian hội nghị.
Chuẩn bị kỹ lưỡng trước mỗi cuộc đàm phán là đặc tính hành vi đàm phán của Trung Cộng.
2) Kiên trì nguyên tắc và co dãn về chi tiết.Năm 1949 Mao đã từng nói:”Tính nguyên tắc của chúng ta là phải kiên định, chúng ta cũng phải vì tất cả của tính nguyên tắc, cho phép và cần thiết linh hoạt”.
Như lúc thế yếu năm 1937, hết sức nhân nhượng, thậm chí có thể đổi quân đội đảng CS thành quân cách mạng quốc dân, nhưng không thể thay đổi sự lãnh đạo của đảng CS. Trong đàm phán Trung-Anh cũng gặp xã hội không ổn định, cổ phiếu sụt xuống, nhưng không nhượng bộ chủ quyền và trị quyền đối với Hồng Kông.
Trong đàm phán Trung-Bồ, Trung Cộng kiên trì thu Ma cao về trước năm 2000. Mô thức “một nước hai chế độ”, hai chế độ ở đây, Trung Cộng cho phép về kinh tế duy trì chế độ tư bản, nhưng về chính trị dứt khoát không cho phép.
Như trong vấn đề Đài loan, lâu nay Trung Cộng vẫn kiên trì từ các vấn đề nguyên tắc: vấn đề Đài loan là vấn đề nội bộ Trung quốc, nguyên tắc một Trung quốc.
3)Tính tranh thủ quan hệ.Trong đàm phán Trung Cộng rất tích cực xây dựng quan hệ, tranh thủ quan hệ, nhằm tạo ra môi trường tốt cho đàm phán. Việc xây dựng quan hệ được bắt đầu từ nhiều mặt, như tranh thủ tình hữu nghị trước đây trong đối thủ đàm phán, tìm lại bạn bè cũ trong đối phương, xây dựng quan hệ với phía thứ ba. Cho nên trong đàm phán năm 1937, bạn bè, thầy giáo, quen biết cũ…không ngừng gửi thư đến tác động. Đàm phán Trùng Khành, Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai cũng hoạt động tích cực xây dựng các quan hệ.
Về quan hệ với phía thứ ba,Trung Cộng thường dùng danh nghĩa môi giới để tiếp xúc với đối phương. Như trong đàm phán Quốc Cộng dùng cái gọi là “Nhân sỹ dân chủ” hoặc “Đồng minh dân chủ”. Trong đàm phán Trung-Mỹ trước đây, thường dùng Liên Xô làm người thứ ba. Đàm phán chiến tranh Triều tiên, Trung Cộng dùng Anh và Ấn độ làm người trung gian. Lập lại quan hệ ngoại giao Trung - Mỹ cũng thông qua Pakistan chắp nối. Việc lựa chọn người thứ ba, tuy không có một chuẩn mực nhất định, nhưng quyết không phải là người chống lại Trung quốc. Trong tìm kiếm quan hệ với Mỹ là bằng cách tiếp cận những nhân sỹ cấp cao trong chính phủ Mỹ và có thể hiểu được quan điểm chính trị và lợi ích của Trung quốc, đồng tình với Trung quốc. Từ đó Trung quốc chú ý xây dựng quan hệ hữu nghị, thân thiết với họ, lôi kéo họ, nắm họ. Những người này đã có tác động nhất định đối với đàm phán.
Đàm phán Trung-Anh, Trung-Bồ, không có người thứ ba tham gia vào, Trung quốc không cho phép người thứ ba can thiệp. với nguyên tắc chủ quyền, đến đoàn đại biểu Hồng Kông cũng bị Trung Cộng đảy ra ngoài, không được tham gia.
4) Tính bức bách của nguyên tắc và tinh thần.Trung Cộng thường lấy nguyên tắc hoặc tinh thần để gây sức ép đối phương, sau hội đàm thường dùng các hình thức “Nguyên tắc nào đó…”, “Kỷ yếu hội họp”, “Thông cáo chung báo chí”, “Tuyên bố chung”, v.v… để phát biểu ra ngoài, mà lấy hình thức Hiệp ước chính thức hoặc hình thức Hiệp ước rất cụ thể để xử lý. Điều này hầu như phản ứng co dãn của Trung Cộng bằng cách mơ hồ câu chữ, để có thể đàm phán sau hoặc gây sức ép hơn nữa đối phương, nhằm đưa ra căn cứ mạnh mẽ khi thực hiện “tinh thần” Hiệp nghị, đồng thời cũng phản ánh Trung Cộng không tin cậy vào phương thức dùng biện pháp pháp luật xử lý vấn đề, Trung Cộng tin tưởng vào quan hệ tốt phù hợp lợi ích quan trọng, mới là bảo đảm quan trọng nhất của Hiệp nghị chính trị. Kiểu lợi dụng tinh thần và nguyên tắc này, đều thể hiện trong các cuộc đàm phán. Như trong đàm phán Trùng khánh, Trung Cộng trước tiên đưa ra nguyên tắc hòa bình, dân chủ, tiếp đó đưa ra yêu cầu quốc gia hóa quân đội, dân chủ hóa chính trị, vấn đề chính quyền vùng giải phóng. Những yêu cầu này đều từ nguyên tắc trên mà đề ra.
5) Xây dựng không khí êm đẹp.Xây dựng không khí êm đẹp trong đàm phán là tác phong lâu nay của Trung Cộng, là công việc quan trọng hàng đầu. Như trong và sau khi đàm phán tổ chức cho đoàn đàm phán đi thâm quan, xem văn nghệ, chiêu đãi, v.v…
6) Tính chủ nghĩa dân tộc là trên hết.Cộng không chỉ nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc, mà càng lợi dụng chủ nghĩa dân tộc, thậm chí hòa trộn với chủ nghĩa yêu nước, trở thành một sức mạnh to lớn. Cho nên trong các cuộc đàm phán đều vận dụng lực lượng này làm hậu thuẫn.
7) Tính không xác định của lời hứa.Đàm phán Quốc – Cộng nhiều lần, tuy cũng đạt được một số Hiệp nghị, nhưng Trung Cộng đều không tuân thủ, chủ yếu là họ còn để tranh thủ càng nhiều lợi ích hơn. Thường là Hiệp nghị ký là một chuyện, nói là một chuyện, làm lại là một chuyện khác. Bề ngoài là thế, nhưng bên trong, đằng sau đều có tính toán khác và làm khác. Khi cần thiết, tạo ra khủng hoảng để bàn lại, thương lượng lại.
Như thời chống Nhật, đàm phán nhất trí là Cộng quân đổi thành quân cách mạng quốc dân. Nhưng thực tế vẫn không ngừng mở rộng thực lực, nên xẩy ra “sự kiện Tân Tứ quân”.
Sau chống Nhật, tuy Quốc –Cộng ký được “Hiệp định song thập”, nhưng trên thực tế vẫn luôn xẩy ra đụng độ.
Trong đàm phán Trung - Anh, Trung Cộng nói là không đóng quân ở Hồng Kông, nhưng sau đó Đặng Tiểu Bình nói:”không đóng quân còn gọi là lãnh thổ của Trung quốc không ?” Cho nên đã đóng quân, v.v…
Trung Cộng thường nói:”Chúng tôi đã nói là chắc chắn, không làm tác động nhỏ”, nhưng thực tế qua nhiều cuộc đàm phán đã ký, đã thực hiện là không phải vậy.
8) Nắm chặt thời gian.Bản thân việc nắm chặt thời gian là một sách lược, cũng là tính toán hiệu quả. Trong đàm phán Trung Cộng thường lấy một mốc thời gian nào đó làm kỳ hạn, nếu quá hạn định đó, Trung Cộng sẽ quyết định, không ngó tới đối phương, hoặc lấy đó làm hòa hoãn đàm phán. Như thời kỳ đầu chống Nhật, Trung Cộng lợi dụng quân Nhật tiến gần, ép chính phủ Quốc dân đảng sớm ký hiệp định, nếu không Trung Cộng sẽ tự có hành động. hoặc năm 1949, Trung Cộng trước khi muốn vượt sông, nhưng ở một số đơn vị chuẩn bị chưa xong, thì cố kéo dài đàm phán không quyết, đợi thời cơ chin muồi mới dùng thời gian ép đối phương. Đàm phán với Anh, Bồ, Trung Cộng vận dụng khâu thời gian rất chắc.
9) Khéo dùng sức ép báo chí.Trong quá trình đàm phán, Trung Cộng lợi dụng báo chí, một mặt để truyền đạt lập trường, chính sách của mình, mặt khác vận dụng dư luận tạo thành sức ép đối phương chấp nhận yêu cầu của họ đưa ra.
CIA trong giải mã văn kiện “hành vi đàm phán chính trị của Trung Cộng” chỉ rằng, Trung Cộng từ rất sớm đã coi báo chí là một vũ khí hết sức mạnh mẽ, và đưa ra những việc cụ thể mà Trung Cộng đã thao túng báo chí:
(1) Ra tay trước: Trung Cộng thường giành trước thời gian trước khi đối phương đàm phán chính thức, thông qua báo chí phát biểu là có thể sẽ bàn, như 3 tuần trước khi Đặng Tiểu Bình đị Mỹ, là tiếp một đại biểu Quốc hội phỏng vấn để đưa tin.
(2) Lợi dụng báo chí tạo ra cái bẫy. Lợi dụng báo chí tạo ra ấn tượng tiến triển tốt về quan hệ Trung-Mỹ, để khi họ đàm phán với Mỹ chiếm thế trên.
(3) Nói bóng, nói gió, ám chỉ. Chung là, quan chức Trung Cộng không thích đả kích đích danh quan chức Mỹ, mà bằng cách gián tiếp.
(4) Nâng cao hy vọng. Nhờ vào sức ép dư luận của báo chí tạo ra để ảnh hưởng đến chính phủ Mỹ, Trung Cộng trong quá trình đàm phán, hễ khi mong muốn của dân ý có lợi cho Trung Cộng, là tìm cách tăng mức độ của chủ đề thảo luận, nhằm làm cho báo chí tăng sức ép đối với Mỹ.
(5) Báo chí kích động. Trung Cộng khéo vận dụng sức mạnh báo chí để ảnh hưởng đối phương, như báo chí Trung quốc nhiều lần đả kích chính sách của Mỹ, lợi dụng phê phán công khai của họ như đã dự kiến, có thể sẽ làm cho chính phủ Mỹ chuyển biến lập trường hoặc áp dụng một vài hành động hợp với ý đồ Trung Cộng.
(6) Định ra giới hạn cho phép. Báo chí Trung quốc thường phát biểu bình luận theo tiến trình đối với mục đích là có ý, định ra mức độ giới hạn co dãn đối với chủ đề đàm phán trong con mắt của đối phương đàm phán ở nước ngoài.
Các nước phương tây như Anh cũng vận dụng dư luận, nhưng cách làm khác hẳn với cách của Trung Cộng. Trung Cộng không chỉ vận dụng công cụ báo chí của mình, tiến hành tuyên truyền toàn diện; mặt khác lại lợi dụng thủ đoạn gián tiếp làm cho báo chí tuân theo.
(xem tiếp phần sau)
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư