I và Y[1]
Đó là những điều có thể thấy được trong cuốn sách I và Y trong chính tả tiếng Việt của Cao Tự Thanh, một nhà nghiên cứu chuyên nghiệp rất quen thuộc trong giới Hán Nôm hiện nay, do NXB Văn hoá Văn nghệ TP Hồ Chí Minh ấn hành vào quý 3 năm 2014.
Cầm trên tay, đọc tên sách, chúng tôi tưởng cuốn sách chỉ bàn thảo về hai con chữ này, nhưng không phải vậy, mà câu chuyện phong phú, lí thú hơn nhiều. Sách không đặt tên chương, phần chính khoảng 200 trang, gồm 4 mục lớn có thể coi như 4 chương: I và Y trong chính tả tiếng Việt hiện nay, I và Y trong từ điển và tài liệu chữ Quốc ngữ, I và Y theo vận thư chữ Hán, I và Y qua chữ Nôm. Sau đó là Kết luận và một Phụ lục.
I và Y trong chính tả tiếng Việt của Cao Tự Thanh không nhằm thảo luận sự hợp lí - bất hợp lí của I/Y hay trình bày ý kiến tán thành - không tán thành cải cách chính tả, xử lí vấn đề I, Y… thế nào, mà tập trung vào việc khảo xét các nguồn ngữ liệu hữu quan, làm sáng tỏ sự xuất hiện, hoạt động của con chữ I và Y trong chính tả Việt ngữ từ thế kỉ XVII đến nay, quá trình lịch sử của chúng trong hệ thống chính tả Việt ngữ đã diễn ra như thế nào, vai trò của chúng ra sao, chúng đã có những “xuất xứ” như thế nào, và việc đồng quy chúng về I trong hầu hết các trường hợp như một số văn bản quy định cách viết hiện nay… là kết quả của cái gì… Qua các miêu tả và phân tích thực tiễn tiến trình ngôn ngữ - văn tự, ta có thể tự hình dung ra được những gì là hơn, thiệt. Theo tác giả, “lịch sử chính tả của chữ Quốc ngữ không song hành với lịch sử chữ Quốc ngữ, hay nói khác đi, lịch sử chữ Quốc ngữ mang trong nó nhiều lịch sử chính tả” (tr. 28); và cách viết i/y trong chữ Quốc ngữ “có nguồn gốc và diễn trình phức tạp hơn rất nhiều so với quan niệm của những người đưa ra cải cách i và y trong Quy định 1980 và Quy định 2002 (tr. 28).
Đọc xong I và Y trong chính tả tiếng Việt, người đọc có thể dễ dàng nhận ra những nội dung chính đã được trình bày, khảo luận trong sách như dưới đây.
1.
Sau khi phác thảo một số nét về tình trạng chính tả Việt ngữ nói chung và cách viết I, Y nói riêng hiện nay, sách khảo luận về thực trạng viết I, Y trong nhiều từ điển và tài liệu chữ quốc ngữ từ thời Dictionarium Annnamiticum Lusitanum et Latinum ope (Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latin) của A. de Rhodes năm 1651 đến nay. Mười bốn cuốn từ/tự điển, một bản thảo Truyện nước An Nam Đàng Trong đã được khảo sát và 3 từ điển, nhiều tài liệu, văn bản khác đã được tham khảo. Thông tin quan trọng, rất đáng được chú ý mà kết quả khảo luận các nguồn ngữ liệu đó cho thấy: việc đồng quy, ghi tất cả là I hay ghi phân biệt I, Y nhưng không nhất quán trong các từ/tự điển và các văn bản viết bằng chữ quốc ngữ trước đây không chỉ đơn giản là quy ước về trật tự con chữ trong các từ/tự điển đó chưa được thống nhất (như chúng ta vẫn tưởng là thế); mà là một câu chuyện khác, liên quan đến nguồn gốc cách đọc, âm đọc Hán Việt (tác giả sách I và Y trong chính tả tiếng Việt gọi là cách đọc, âm đọc Việt Hán).
Đặc biệt, tác giả phát hiện và xác định trong chữ quốc ngữ trước nay có hai dòng chính tả chủ yếu mà anh gọi là dòng ngoại nhập và dòng Việt hoá (tr. 71). Các từ/tự điển như Dictionarium Annnamiticum Lusitanum et Latinum ope (Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latin, 1651) của A. De Rhodes, Dictionarium Annamitico-Latinum (Tự vị Annam - Latin, 1773) của Pigneaux de Béhaine, Dictionarium Annamitico-Latinum (Nam Việt dương hiệp tự vị, 1838 ) của J. B. L. Taberd, Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896) của Huình Tịnh Paulus Của, Từ điển Annam - Pháp (Đại Nam quốc âm tự vựng hợp giải Đại Pháp quốc âm, 1899-1900) của J. Bonet, Chữ Nôm tự điển (1988) của Yonosuke Takeuchi… (những từ/tự điển duy trì cách viết chính tả theo con chữ Latin và sắp xếp các mục theo thứ tự trong bảng chữ cái Latin) là đại diện cho dòng chính tả ngoại nhập. Ngược lại, các từ điển như Dictionaire Élémentaire Annamite - Français (Từ điển giản yếu Annam - Pháp, 1868) của L. G. de La Liraye, Dictionaire Annamite - Français (Từ điển Annam - Pháp, 1898) của F. J. Genibrel, Dictionaire Annamite - Français (Từ điển Annam - Pháp, 1930) của G. Cordier, Việt Nam tự điển (1931) của Hội Khai trí Tiến đức, Giản yếu Hán Việt tự điển (1932) của Đào Duy Anh, Dictionaire Vietnamien - Chinois - Français (Từ điển Việt - Hán - Pháp, 1957) của E. Gouin… “lấy thực tế ngữ âm và từ vựng tiếng Việt làm cơ sở và xử lí chính tả trên nguyên tắc ghi theo âm tiết” [thực ra là kết hợp thứ tự chữ cái Latin với thứ tự phụ âm đầu của âm tiết để sắp xếp từ ngữ trong từ/tự điển - VĐN] (tr. 74) là đại diện cho dòng chính tả Việt hoá.
Đây là một phân loại khá tinh tế và thực tế, vừa là nhân, vừa là quả của những sự kiện ngôn ngữ, văn tự, từ điển học khác nhau (đã được phân tích trong công trình của anh). Tuy nhiên, ở chỗ này có lẽ tác giả nên phân tích và trình bày kĩ hơn một chút thì tốt hơn. Chính tả là câu chuyện của quy định phép tắc về cách viết chữ; còn việc sắp xếp tổ chức các mục từ trong từ/tự điển là việc gắn liền, nhưng không phải là một. Các từ điển đại diện cho dòng chính tả ngoại nhập (theo phân loại của anh) sắp xếp các mục từ thuần tuý theo thứ tự trong bảng chữ cái Latin (tức là theo kiểu của châu Âu hoàn toàn), còn các từ điển đại diện cho dòng chính tả Việt hoá thì thực ra là kết hợp trật tự chữ cái trong bảng chữ cái Latin với ngữ âm, âm vị trong hệ thống âm vị tiếng Việt để sắp xếp thứ tự các mục từ. Ví dụ, nếu như dòng ngoại nhập xếp các từ được viết với chữ C mở đầu vào chung vần C, tất nhiên là kể cả CH thì dòng Việt hoá tách những từ được viết với CH ở đầu ra thành một vần riêng, độc lập với “vần C”. Vần C chỉ gồm những từ có phụ âm đầu C là phụ âm /k/; còn vần CH trong từ điển là tập hợp của các từ có phụ âm /c/ với chữ cái đầu tiên là C. Ở vần T với TH và TR, vần K với KH cũng tách ra tương tự như vậy.
Phân biệt hai dòng từ điển như thế, ứng với hai cách sắp xếp mục từ khác nhau, là hoàn toàn chính xác. Hai cách sắp xếp mục từ khác nhau ở hai dòng từ điển phản ánh sự nhận thức khác nhau, cách xử lí chính tả - ngữ âm khác nhau đối với thực tiễn ngữ âm, từ điển học và từ tiếng Việt. Chúng tôi hoàn toàn chia sẻ và tán đồng tư tưởng này của tác giả. Nhưng nói rằng hai dòng từ điển này đại diện cho hai dòng chính tả ngoại nhập và Việt hoá thì có lẽ tác giả nên có những phân tích và giải thích thêm cho cặn kẽ hơn để tránh làm cho người đọc có thể hơi quá đơn giản trong cách hiểu vấn đề.
2.
Nội dung thứ hai, rất quan trọng mà I và Y trong chính tả tiếng Việt đã khảo sát và trình bày, cho thấy sau những văn bản viết bằng chữ Quốc ngữ (1651) của A. de Rhodes, khởi đầu chính thức là Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latin, Phép giảng tám ngày… nhất loạt ghi âm /i/ trong các từ Hán Việt bằng I cả, thì từ năm 1659, khởi đầu là văn bản (viết bằng chữ Quốc ngữ) Lịch sử nước Annam [1] của Bento Thiện, rồi về sau, trong các từ điển, văn bản khác của nhiều học giả, trí thức, người viết nói chung, lại có ý thức phân biệt (với những mức độ nhất quán khác nhau) trong cách viết I và Y ở các từ Hán Việt. Cụ thể là, trong Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latinh, các nguyên âm /i/ đều viết bằng I (i, í, ích, jì, im, in, ỉnh ương, ít), còn khi thể hiện thành phần I trong nguyên âm đôi /ie/ thì viết với Y (yả, yểm, yên, yến, yết hầu, yêu, yếu, yểu); trong Phép giảng tám ngày Rhodes viết “sinh là kí dã, tử là qui dã”, “thờ ma khấn quỉ” …
Đối với các tiếng Hán Việt, Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latinh và Phép giảng tám ngày… nhất loạt viết nguyên âm /i/ bằng I cả trong tiếng “không có phụ âm đầu” (kí hiệu 0 + i/y) lẫn trong tiếng có phụ âm đầu (kí hiệu x + i/y).
Có thể tóm tắt cách viết I, Y cho các tiếng / âm tiết / từ đơn tiết Hán Việt có phần vần là I/Y trong các nguồn văn bản mà tác giả đã khảo sát như sau:
a) Loại nhất quán viết cả 0 + i/y lẫn x + i/y bằng I, chỉ có Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latin (1651, Rhodes)
b) Loại nhất quán viết 0 + i/y bằng Y, viết x + i/y bằng I, có: Tự vị Annam Latinh (1773,de Béhaine), Truyện nước An nam Đàng Trong (1822. P.Bỉnh), Từ điển Việt - Hán - Pháp (1957,E. Gouin), Nam Việt Dương hiệp tự vị (1838, Taberd, viết x + i/y chủ yếu bằng I, có một vài ngoại lệ), Từ điển giản yếu Annam-Pháp (1868, de La Liraye; viết x + i/y chủ yếu bằng I, một số tiếng đã viết Y), Chinois-Annamite Latin-Français (1867, G. Pauthier; một số tiếng loại 0 + i/y viết bằng Y, loại x + i/y nhất quán viết I).
c) Loại nhất quán viết 0 + i/y bằng Y còn tiếng x + i/y được viết không nhất quán, có: Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896, Huình Tịnh Paulus Của): một số tiếng có âm đầu K, L viết với Y, tất cả còn lại viết với I. Từ điển Annam – Pháp (1898, F. J. Genibrel): I hoặc Y khi đi với âm đầu L, một tiếng có âm đầu K: kí/kí. Đại Nam quốc âm tự vựng hợp giải Đại Pháp quốc âm (1899-1900,J. Bonet): I/Y khi đi với âm đầu K, L. Còn lại, viết I. Từ điển Annam – Pháp (1930, G. Cordier): Viết Y khi đi với âm đầu K, L. Việt Nam tự điển (1931, Hội Khai trí Tiến đức): I. Đi với âm đầu K nhất loạt viết Y. Phụ trươngTự vựng của Nam Phong tạp chí (1917 -18): Đi với âm đầu K nhất loạt viết Y. Đi với âm đầu L, viết I hoặc Y. Giản yếu Hán Việt tự điển (1932, Đào Duy Anh): I hoặc Y nhất quán tuỳ theo phụ âm đầu mà nó đi cùng. Việt Hán thông thoại tự vị (1933, Đỗ Văn Đáp): I/Y nhất quán hoặc không nhất quán tuỳ theo từng phụ âm đầu mà nó đi cùng. Hán Việt tự điển (Thiều Chửu): I/Y không nhất quán, tuỳ theo từng phụ âm đầu mà nó đi cùng.
Theo Cao Tự Thanh, việc viết I hay Y cho nguyên âm /i/ có lí do ở ý muốn phân biệt tiếng/từ (đơn tiết) thuần Việt hay Hán Việt. Cách viết “y dài” trong những từ như y, ý trong văn bản Lịch sử nước Annam (năm 1659) của Bento Thiện là những chứng tích sớm nhất mà chúng ta có được hiện nay về cách viết này cho những tiếng/từ Hán Việt loại 0 + i/y, để phân biệt với cách viết tương ứng I ở những tiếng/từ không phải là Hán Việt.
3.
I và Y trong chính tả tiếng Việt đã phân tích một cách mạch lạc, cho thấy sự tồn tại song song I/Y trong chính tả chữ quốc ngữ là do việc viết các từ Hán Việt có lai nguyên từ những tiếng/từ có âm vị I vốn xuất thân từ hai nguồn gốc khác nhau (tức là hai âm vị I khác nhau). Chính tả chữ Quốc ngữ từ thế kỉ XVII đến nay, nhất quán viết nguyên âm I của các tiếng thuần Việt bằng I, chỉ riêng trong các tiếng Hán Việt thì nó mới có thể viết với song thức I/Y, bởi vì nguyên âm I Hán Việt đó vốn xuất thân từ hai nguồn gốc: I Tam đẳng Khai khẩu và I Tam đẳng Hợp khẩu. Kết quả khảo sát các bộ vận thư, đặc biệt là bộ Bội văn vận phủ [2] biên soạn và ấn hành đầu thế kỉ XVIII thời Thanh cho thấy rõ vần trong các bộ vần Bình thanh Tứ chy ngũ vi, các bộ vần Thượng thanh Tứ chỉ Ngũ vĩ, các bộ vần Khứ thanh Tứ chí Ngũ vị có hai nguyên âm I khác nhau, tuy cùng thuộc Tam đẳng nhưng một là I Hợp khẩu và một là I Khai khẩu, trong đó, nhiều tiếng Hán Việt thuộc Tam đẳng Khai khẩu được viết với Y.