Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Poet Hansy

XA LỘ BIÊN HOÀ [2]


Với chiều dài lúc khánh thành là 30 km, Xa lộ Biên Hoà chạy từ Sài Gòn tới Biên Hoà là công trình giao thông nổi tiếng thời đó, với nhiều ưu điểm và hiện đại bậc nhất nên nhiều câu chuyện thực hư cứ thế thêu dệt?
Khởi công từ 1959 đến 1961 thì hoàn thành, Xa lộ Biên Hoà do hãng thầu lớn nhất của tư bản Mỹ ở miền Nam là hãng thầu RMK – BRJ thi công. Hãng thầu này hồi đó được độc quyền xây dựng các công trình quân sự cho Mỹ (với trên 100 công trình) nên có thuê mướn tầm 40.000 công nhân, trong đó có những lực lượng lao động đến từ các nước phụ thuộc Mỹ đến làm việc.
Trong cuốn sách Mỹ thuật đô thị Sài Gòn - Gia Định 1900 - 1975 (NXB Mỹ thuật ấn hành) nhà giáo - hoạ sĩ Uyên Huy (Huỳnh Văn Mười), nguyên Chủ tịch Hội Mỹ thuật TP.HCM kể về công trình này như sau: “Theo kế hoạch, chính phủ Việt Nam Cộng hoà sẽ thành lập khu công nghiệp tại vùng Biên Hoà. Còn vùng Sài Gòn là trung tâm thương mại và khu dân cư sẽ tiêu thụ hàng hoá sản xuất từ khu công nghiệp này. Đối với những người sống tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Biên Hoà sẽ có con đường cao tốc đi lại cho nhanh. Dự định đó ngày nay nhìn đã thấy rõ là nhiều người sống tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Đồng Nai vẫn di chuyển trên xa lộ Hà Nội mỗi ngày và nhà cửa hai bên xa lộ Hà Nội ngày càng xây san sát...”.
Theo sách đã dẫn cho biết: “Cách thức phát triển mới thì việc làm hạ tầng cơ sở như đường xá, cầu cống trước rồi sau đó các nhà máy, hãng xưởng mới mở ra là hợp quy luật. Vì thế, lúc đầu chỉ làm xa lộ thôi, còn các hãng xưởng sẽ được xây dựng tại khu công nghiệp Biên Hoà khi các chủ hãng thấy có đường xá lưu thông thuận lợi. Đến năm 1975 xa lộ Biên Hoà làm đúng chức năng mà những nhà qui hoạch trước đó đã dự định: Có nhiều hãng xưởng mở ở khu công nghiệp Biên Hoà. Hàng ngày, nhiều công nhân tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Biên Hoà được xe buýt của công ty chở đi. Các công nhân tụ tập tại một số điểm ở Sài Gòn, xe buýt ghé đón và chở đi Biên Hoà. Chiều xe buýt lại chở công nhân về thả ở các điểm tụ tập”.
Đến cuối thập niên 1960 đầu 1970, phía Nam lại tiếp tục có Xa lộ Vòng Đai được xây dựng, sở dĩ người ta gọi là Xa lộ Vòng Đai vì xa lộ không nối liền hai TP mà chỉ chạy chung quanh TP Sài Gòn, công trình do công binh của Nam Hàn xây dựng nên còn được gọi Xa lộ Đại Hàn
Chuyện thêu dệt râm ran thời đó, ngoài việc nói Mỹ làm đường xa lộ Biên Hoà để phục vụ cho quân sự là Mỹ có ý chiếm đóng lâu dài tại miền Nam hoặc làm phi đạo để máy báy đáp xuống nếu Tân Sơn Nhất gặp sự cố, thì vẫn còn có những ý kiến khác nữa.
Ông Huỳnh Văn Mười tiết lộ: “Khi Xa lộ Biên Hoà hoàn thành, có người cũng cho rằng xa lộ này để chuyển quân cho nhanh hoặc xa lộ vành đai để phòng thủ Sài Gòn. Có những người từng đi Pháp, trước đây giải thích Xa lộ Biên Hoà là để nối với Khu công nghiệp thì không hiểu là Xa lộ Vòng Đai này để làm gì vì chẳng nối với khu công nghiệp nào cả nên lại thắc mắc tiếp. Còn người đi du học Mỹ về thì giải thích đây là cách xây Xa lộ Vòng Đai như các TP bên Mỹ. Dĩ nhiên trong thời chiến thì Xa lộ Vòng Đai sẽ giúp cho việc di chuyển của quân đội dễ dàng hơn vì không phải xuyên qua TP đông đúc nhưng tới thời bình, Xa lộ Vòng Đai sẽ nằm trong toàn bộ hệ thống xa lộ nối liền các TP khi có nhiều xa lộ khác tiếp tục làm thêm”.
Từ những lập luận và kiến thức của một nhà nghiên cứu, nguyên Chủ tịch Hội Mỹ thuật TP.HCM kết luận: “Nếu nhìn vào thời điểm Xa lộ Biên Hoà được xây dựng năm 1959 thì có thể thấy mục đích của con đường không phải là để phục vụ chiến tranh. Người có kiến thức về cách xây dựng một quốc gia công nghiệp thì xem người Mỹ đang giúp cho miền Nam công nghiệp hoá. Do đó, cũng là một con đường mà Xa lộ Biên Hoà với kiến thức khác nhau, người ta có thể gán cho nó những mục đích khác nhau, từ đó có các thái độ khác nhau với con người làm ra công trình đó”.
LÊ CÔNG SƠN
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

Nhà văn Lê Văn Nghĩa hé lộ lý do
nhà thơ Bùi Giáng bị điên



Nổi tiếng với những tác phẩm về trào phúng và từng là một trong các nhân vật cầm trịch tờ Tuổi Trẻ Cười, bỗng dưng về già nhà văn Lê Văn Nghĩa chuyên sang viết nghiên cứu rất có nghề, khiến bạn bè trong giới phải nể phục.

Nhà thơ “nửa mê nửa tỉnh” Bùi Giáng-ẢNH: T.L
Chiều 31.10 tại Đường Sách TP.HCM, nhà văn Lê Văn Nghĩa đã có dịp gặp lại nhiều đồng nghiệp nghiên cứu và độc giả yêu mến ông bằng một buổi ra mắt hoành tráng cuốn sách mới: Văn học Sài Gòn 1954 – 1975, những chuyện bên lề do NXB Tổng hợp TP.HCM vừa ấn hành.

Nhà văn “đẹp trai” Lê Văn Nghĩa tại buổi ra mắt cuốn sách mới-ẢNH: QUỲNH TRÂN
Nhà văn Lê Văn Nghĩa (sinh năm 1953), ông là dân “chính hiệu” Sài Gòn, học tiểu học trường Bình Tây (nay là Trường tiểu học Nguyễn Huệ, Q.6), rồi chuyển học trung học trường Petrus Ký (nay là trường chuyên Lê Hồng Phong, Q.5) ở đâu ông cũng đều được “thầy yêu bạn mến”. Ông cũng từng tham gia phong trào học sinh - sinh viên yêu nước xuống đường đấu tranh trước năm 1975, bị đối phương bắt giam, đày tận nhà tù Côn Đảo.
Cùng với văn chương, tác giả Lê Văn Nghĩa sớm hoạt động báo chí, ông từng trải qua nhiều chức vụ: Phó Tổng thư ký toà soạn báo Tuổi Trẻ, phụ trách Chủ biên báo Tuổi Trẻ Cười, với các bút danh nổi tiếng: Điệp viên Không Không Thấy, Thằng Hề, Hai Cù Nèo, Đại Văn Mỗ…
Nhiều tác phẩm của ông đã được đã xuất bản: Mùa hè năm Petrus (tập truyện), NXB Trẻ 2012, Chuyện chán phèo (tập truyện trào phúng), NXB Trẻ 2013, Nếu Adam không có xương sườn (sưu tầm, bình loạn... xạ), NXB Trẻ 2015, Chú chiếu bóng, nhà ảo thuật, tay đánh bài và tụi con nít xóm nhỏ Sài Gòn năm ấy (tập truyện), NXB Trẻ 2015, Tụi lớp nhứt trường Bình Tây, cây viết máy và con chó nhỏ (tập truyện), NXB Trẻ 2016 và ...Nỗi buồn đàn ông (tập truyện trào phúng), NXB Trẻ 2017.
Tự nhận mình là người…quá rảnh, nhà văn hay tìm đọc các tờ báo, tạp chí văn học trước 1975 để tìm thêm những tư liệu về Sài Gòn, ai ngờ thấy mê luôn. Nhất là trước các khoảng trống của văn học miền Nam ông tự thấy phải dấn thân để “ ít nhiều đóng góp cho hiện ra mờ mờ một dòng văn học xưa”.
Cùng với Loanh quanh Sài Gòn, tác phẩm mới nhất Văn học Sài Gòn 1954 – 1975, những chuyện bên lề của ông là hai trong số 45 cuốn sách mới ra mắt phải tái bản ngay, để phục vụ Tuần lễ Sách hay diễn ra trong tuần tới do NXB Tổng hợp TPHCM tổ chức.Trong 141 câu chuyện được giới thiệu trong sách, gần như đều do tác giả Lê Văn Nghĩa đọc được từ các nguồn tư liệu sách báo xưa, hồi ký của các nhà văn. Một số ít còn lại, là chuyện bên lề do chính ông khai thác được từ nhân vật mà bản thân có sự gắn bó, thân thiết. Những câu chuyện mà nhà văn Lê Văn Nghĩa tự nhận mình là “người hệ thống lại, không làm được gì to tát”.
Trong cuốn sách, nhà văn Lê Văn Nghĩa dành một số bài viết để đề cập nhiều chuyện ít biết về thi sĩ Bùi Giáng: “Hy hữu nhất là nhà thơ Bùi tiên sinh còn viết truyện võ hiệp. Theo hồi ký của nhà văn Hoàng Hải Thuỷ: ‘Bùi Giáng viết bộ truyện feuilleton võ hiệp đăng nhật báo Sống năm 1970. Tôi không nhớ tên truyện của anh, chỉ nhớ anh dùng thật nhiều hai tiếng liên tồn, tồn liên trong truyện. Anh tả và cho hai nhân vật khơi khơi nói hai tiếng trên, đại khái: “Nàng có sắc đẹp tồn liên, nàng nở nụ cười liên tồn, đa tạ đại hiệp đã có dạ tồn liên…”.
Còn lý do nào khiến cho Bùi Giáng trở thành nhà thơ điên nổi tiếng Việt Nam được nhà văn Lê Văn Nghĩa bật mí: “Không ai rõ nguồn cơn nào đã khiến cho Bùi Giáng trở thành người mắc bệnh tâm thần. Tuy nhiên theo nhà thơ Tô Kiều Ngân thì có hai cú sốc trong cuộc đời khiến cho Bùi Giáng không còn tỉnh táo. Cú sốc thứ nhất, người vợ của Bùi Giáng tên Phạm Thị Ninh nổi tiếng xinh đẹp, qua đời trong cơn sinh nở cùng đứa con sơ sinh. Bùi Giáng có những câu thương nhớ vợ nơi quê nhà: ‘Có hàng cây đứng ngóng thu/Em đi mất hút như mù sa mây”. Có người còn cho rằng sở dĩ Bùi Giáng trở thành nhà thơ, làm thơ nhiều từ khi viết bài thơ về người vợ cùng đứa con chưa thấy mặt của mình”, tác giả Lê Văn Nghĩa kể.

Thi sĩ Bùi Giáng (trái) và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn-ẢNH: T.L
Ngoài ra, một cú sốc khác cũng không kém phần khủng khiếp, tạo dấu ấn trong cuộc đời nhà thơ điên này là vụ cháy nhà làm thiêu rụi của ông ba ngàn quyển sách được nhà thơ như là tài sản vô giá. “Hai cú sốc lớn trong đời đã khiến ông điên điên, tỉnh tỉnh. Ông làm những bài thơ mà Nguyễn Văn Lục đã nhận xét: Thơ của Bùi Giáng chỉ là thơ của người điên làm thơ (Hai mươi năm văn học miền Nam)”, nhà văn Lê Văn Nghĩa đúc kết.
Không chỉ viết riêng cho Bùi Giáng mà vì có quá nhiều phát hiện thú vị bên lề của văn học miền Nam mà cuốn sách mới phát hành của nhà văn Lê Văn Nghĩa đã được nhà thơ Phan Hoàng - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM nhận xét tại buổi lễ ra mắt sách: ‘Theo tôi, tác phẩm Văn học Sài Gòn 1954 – 1975, những chuyện bên lề của NXB Lê Văn Nghĩa là một trong những cuốn sách vê Sài Gòn rất đáng tìm đọc và…suy ngẫm”.
Lê Công Sơn
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

NGUỒN GỐC CÁI TÊN “SẦU RIÊNG”


Một người ngoại quốc tới Nam Việt từ đầu thế kỷ thứ XIX kể chuyện trong tập ký ức của ông là đời ông đã phải một mẻ khiếp sợ, ấy là ông đã bị bắt buộc ăn trái sầu riêng, nhưng ông cũng thú rằng hết sợ rồi quen và hết quen thành ra mắc nghiện. Ấy là nghiện ăn trái sầu riêng.

Năm ấy ông mới bước chân tới Sài Gòn còn gọi là Tây Cống, thì được mời tới dự tiệc tại dinh một vị đường quan. Vì xã giao ông phải tới, và muốn biết phong tục của xứ ta, ông lấy làm sung sướng mà tới. Người Trung Hoa cho ông trọ đã rỉ tai cho ông tường qua về xã giao của ta thế nào và khuyên ông phải ăn hết thảy những món ăn nào mà chủ nhân mời mình. Người ta mời mà mình từ chối, ấy là khách khinh chủ đấy.

Ông khách ngoại quốc sau khi y phục chỉnh tề, nhảy lên xe ngựa tới dinh dự tiệc. Thôi không thiếu một sơn hào hải vị nào, toàn những thức ăn mà ông chưa từng được thấy ở nước nhà bao giờ, chủ mời ông ăn món gì, ông đều không từ chối. Mà món gì cũng ngon thật, vì nó lạ miệng. Đến khi tráng miệng ông thấy gia nhân mang ra một dĩa lớn trên bày một thứ gì màu vàng nhợt, to bằng hột gà. Chưa để lên bàn ông đã ngửi thoảng thấy mùi giống như trứng hư hệt như phó-mát “ca-măm-be” của người Âu châu.

Một điều lạ khiến ông chú ý là sau khi các dĩa kia đã bày ở trước mặt quan khách thì gia nhân lại đặt ở giữa bàn một cái đỉnh đồng nhỏ trong đốt trầm và hương khói toả lên nghi ngút. Mùi trầm hướng đánh át hẳn mùi dĩa thức ăn tráng miệng kia. Chủ nhà trịnh trọng đứng lên mời khách chiếu cố xơi đồ tráng miệng. Ông khách ngoại quốc đưa mắt nhìn xem bạn đồng bàn ăn uống ra sao. Người ta làm gì ông cũng làm vậy. Ông thấy người ta thò năm đầu ngón tay vào cái bát bằng bạc đựng chút xíu nước, trên thả vài lá chanh rồi rửa năm đầu ngón tay để lấy đồ tráng miệng. Ông khách phương xa theo xã giao cùng thò tay dón lấy một miếng, cầm hơi rồi cho vào miệng. Mùi trầm thơm tho át cả mùi rượu, mùi thực phẩm. Ông nhai để nuốt. Nhưng chao ôi!

Ông thấy nó làm sao ấy. Trong miệng ông có một thứ ăn nhun nhũn, mềm mềm và cái mùi nó mấy lạ làm sao. Không ra mùi thịt ôi, chẳng giống mùi phó-mát, nó là một mùi khó tả. Đã cho vào miệng, ông nhai rõ nhanh rồi nín hơi lấy sức nuốt, nhưng ông càng cố gắng nuốt thì lương trí ông không cho, có cái gì nó giữ món ăn mới lạ ở cổ ông. Vẫn cầm hơi, ông ráng sức một lần nữa, đem hết sức bình sinh mà nuốt, mồ hôi toát ra ở trên trán. Thế rồi may mắn cho ông lúc khó khăn ấy, chủ nhân đến trước mặt ông, trịnh trọng hỏi ông ăn phẩm vật có ngon không. Để có thể trả lời, ông nuốt đến ực một cái, thế là cái của nợ ấy, từ mồm ông đã chui tọt vào bao tử ông rồi, khiến ông tươi tỉnh đáp lại lời chủ nhân: “Thưa ngài món ăn này thật là ngon, tôi chưa từng được thưởng thức bao giờ.”

Thấy khách nói vậy, chủ nhân theo lối Á Đông nhất định chiều quý khách, đến gần khẩn khoản mời ông cùng ăn nữa…

(Tranh trong “Văn hoá nguyệt san” số 7, tháng 10-11/1955)
Mồ hôi trán ông lại đổ ra, nghĩ đến phải ăn nữa, quả tim ông đập như trống đánh, hai tai ông ù lên, mắt ông hoa cả đi. Để khách không từ chối, chủ nhân trịnh trọng lấy một miếng để ăn và miệng mời khách. Ông khách của chúng ta thật khó nghĩ, không biết ăn làm sao nói làm sao. Thôi đành:

Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Để xem con tạo xoay vần ra sao?

Thế rồi như một cái máy, với một bộ mặt vui vẻ, ông thò tay lấy một miếng rồi đồng thời với chủ nhân, ông tươi cười cho vào miệng, để tươi tỉnh nhai rồi tươi tỉnh nuốt. Hết miếng này đến miếng khác, chủ và khách “xơi” hết cả đĩa! Ăn xong, mồ hôi ông khách ra ướt hết cả áo lót mình, như thể tắm dưới sông. Chủ gọi lấy nước chè tàu nóng rồi cùng khách uống và đàm thoại. Ông lấy làm lạ là sau khi uống nước chè tàu, ông thấy vị chè với vị trái cây kia hoà hợp với nhau tạo thành một hương vị đặc biệt, nó thoảng thơm ở trong miệng ông mãi và nó không ghê sợ, không lợm giọng như lúc đầu ông ăn. Ông hỏi chuyện chủ nhân về cái trái gì mà ngon vậy.

Chủ nhân cho mang ra một trái to bằng đầu người, vỏ xù xì mà ông gọi là “trái mít gai”, vì vị nó giống vị mít, hình nó giống hình trái mít. Khách là một nhà bác học chuyên về thảo mộc; ông đã chu du thiên hạ, tham dự nhiều đoàn thám hiểm nghiên cứu về cây cối năm châu. Trông thấy trái này, ông nhận ngay là một trái cây mà ông đã thấy mọc ở Mã Lai và thổ dân vẫn lấy để tế thần rồi mấy ăn. Chủ nhân hỏi khách có biết tên trái này là gì không? Nhớ đến tên mà thổ dân Mã Lai đã bảo ông, ông nói, với giọng người ngoại quốc mới học tiếng Việt:

Trái này là trái Dâu-riăng của người Mã Lai.

Chủ nhân và mọi người đều nhắc lại cái tên là lạ Dâu-riăng ấy. Rồi sau bữa tiệc “vô tiền khoáng hậu” ấy đối với nhà khoa học ngoại quốc kia, tiếng Dâu-riăng được truyền khẩu, một đồn mười, mười đồn trăm, trăm đồn nghìn, nó đến chợ, nó qua mồm các người nông dân, và tới đầu thế kỷ hai mươi, cái tên thực thụ Mã Lai của trái ấy là Doerian hay Durian, qua một nhà thảo mộc học nói tiếng Việt thành ra Dâu-riăng rồi qua bao nhiêu năm nay đã có cái tên ngộ nghĩnh là Sầu Riêng.

Trái Sầu Riêng thuộc về loại cây bông (gòn) họ man-vát-sê và tên khoa học là Durio zibethinus, trong có nhiều chất bổ như bột (11%), đường ngọt (16%), đạm chất (7%), dầu béo (3%), khoáng chất (1%), và sinh tố A nữa.

Như vậy ăn trái Sầu Riêng kể ra rất bổ tuy cái vị nó bùi, nhưng mùi nó lạ lùng khiến cho ai đã quen thì ưa, và đã ưa đâm ra nghiện. Còn những ai chưa quen thì cho cái mùi ấy nó mạnh làm sao, nó khó ngửi làm sao, và ai có ăn trái ấy là theo “nhân tâm tuỳ thích”. Xin giữ lấy mùi ấy cho mình nếu muốn thưởng thức lấy toàn hương vị của nó thì phải biết uống nước chè tàu, phải biết ngâm thơ, và phải có nghị lực, theo như câu hát nơi đồng ruộng vùng Lai Thiêu thuộc tỉnh Thủ Đầu Một là nơi sản xuất ra nhiều Sầu Riêng:

Trái chi hương vị lạ đời,
Sầu Riêng ấy trái dễ mời khó ăn.

Nguyễn Công Huân
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

[[u][/u]b]

CHUYỆN TÊN ĐƯỜNG SÀI GÒN

[/b]
Sau năm 1975, hầu hết bảng tên những con đường mang tên các nhân vật lịch sử có liên quan đến chính quyền Nguyễn Ánh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Trương Tấn Bửu, Trương Minh Giảng, Đỗ Thành Nhân, Petrus Ký, thậm chí cả Phan Đình Phùng đều bị tháo gỡ xuống, thay vào đó là tên những nhân vật đương đại…

Tên đường trong lịch sử Sài Gòn xưa và nay
Từ cái thời các anh Tây mũi lõ chưa xâm chiếm nước ta, thành phố Sài Gòn xưa đã có một hệ thống đường sá ngang dọc trong một khu vực giới hạn bởi sông Sài Gòn và các con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – Võ Thị Sáu – Hai Bà Trưng ngày nay.

Không rõ ông bà xưa có đặt tên đường không, để mỗi lần viết thư kể lể tình yêu thì có cách mà nhắc nhau những kỷ niệm ban đầu. Chỉ biết rằng khi Pháp mới chiếm Sài Gòn thì trong những năm đầu thập niên 1860, Sài Gòn có 26 con đường mang số thứ tự từ 1 đến 26. Năm 1865, Thống đốc Pháp De La Grandière mới lấy tên người hay tên những chiếc tàu tham gia trực tiếp vào cuộc chiến chiếm Sài Gòn để đặt tên cho từng con đường một.

Sang thế kỷ 20, nhất là từ sau khi thực dân Pháp rút khỏi Việt Nam, tên đường được Việt hoá dần, phần lớn lấy tên các danh nhân trong lịch sử. Đường Bonard thành đường Lê Lợi, đường Charner thành đường Nguyễn Huệ, đường Catinat thành đường Tự Do, đường Espagne thành đường Lê Thánh Tôn… Sau ngày 30/4/1975, trong việc điều hành thành phố, chưa bao giờ người Sài Gòn nhìn thấy một cuộc “cách mạng” triệt để trong việc đặt tên đường như thế. Hầu hết bảng tên những con đường mang tên các nhân vật lịch sử có liên quan đến chính quyền Nguyễn Ánh, Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Võ Tánh, Ngô Tùng Châu, Trương Tấn Bửu, Trương Minh Giảng, Đỗ Thành Nhân, Petrus Ký, thậm chí cả Phan Đình Phùng đều bị tháo gỡ xuống, thay vào đó là tên những nhân vật đương đại mà rất nhiều dân Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định không biết họ là ai. Điều này phản ánh một cái nhìn chật hẹp, đầy thiên kiến về lịch sử, về các nhân vật lịch sử, làm xáo trộn sự hiểu biết về lịch sử của lớp trẻ và làm đảo lộn một cách không cần thiết các sinh hoạt của người dân thành phố lúc bấy giờ. Ngày nay, sau gần 40 năm, vẫn chưa có gì hứa hẹn một sự xem lại những việc làm vội vã vào một thời điểm có quá nhiều việc phải làm sau 30/4/1975.

Nhiều cuộc hội thảo phản ánh những cái nhìn rộng rãi, hợp tình, hợp lý, hợp đạo nghĩa hơn đối với các nhân vật lịch sử như Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký… đã được các tổ chức có liên quan ít nhiều đến chính quyền, chủ yếu là Hội Sử học, tổ chức, song nhiều mặt của đời sống, trong đó có chuyện tên đường, vẫn còn nguyên sức ỳ của chúng. Ngày 4/2/2008, tượng đồng của Tả quân Lê Văn Duyệt cao 2,65m, nặng 3 tấn được đặt tại lăng Ông trong một buổi lễ trang trọng, nhưng cái tên đường Lê Văn Duyệt quen thuộc chạy ngang lăng Ông vẫn còn nằm ở một chân trời viễn tưởng nào. Tại Cần Thơ, trường Phan Thanh Giản đổi thành Châu Văn Liêm sau 30/4, nay đã trở về tên cũ, song đường Phan Thanh Giản xa xưa tại Sài Gòn-TP.HCM nay vẫn là Điện Biên Phủ.

Còn có một sự tắc trách đáng phê phán nữa của Uỷ ban đặt tên đường cấp thành phố vốn dĩ gồm những nhân tài có bằng cấp cao, có tiếng tăm trong xã hội. Đó là hiện tượng đặt tên đường bằng tên những “danh nhân” không có trong lịch sử. Chuyện này đã có lần nói rồi, chỉ xin nhắc lại một cách sơ lược. Đó là ít nhất hai con đường Trần Khắc Chân, một ở khu Tân Định, quận 1, và một ở quận Phú Nhuận, chạy ngang toà soạn báo Tuổi Trẻ. Vì trong lịch sử, tự cổ chí kim, không có nhân vật nào tên như thế cả, chỉ có Trần Khát Chân và Trần Khắc Chung thôi. Trong lịch sử, cũng không có nhân vật nào tên Trương Quốc Dung (quận Phú Nhuận) hết, chỉ có Trương Quốc Dụng. Đường Sương Nguyệt Anh, lúc trương bảng ban đầu, ghi là Sương Nguyệt Ánh, ít lâu sau chỉnh lại cho đúng, song cũng khá muộn, nên ngày nay hầu hết các cơ quan nằm trên con đường này đều in tên Sương Nguyệt Ánh trên các giấy tờ giao dịch của họ.

Tên tộc, niên hiệu, hay miếu hiệu?
Với những con đường mang tên các vì vua nổi bật trong lịch sử, việc đặt tên khá tế nhị. Giới nho sĩ xưa thường có tên hiệu, nhưng vua chúa ngoài tên tộc khi nhỏ, còn có niên hiệu đặt ra khi vừa lên ngôi, thuỵ hiệu do triều thần đặt ra khi vừa nằm xuống, và miếu hiệu đặt ra để thờ trong Thế miếu.

Hiện nay, tên các vị vua này được đặt cho các đường phố không theo một quy chuẩn nào. Ở Gò Vấp có đường Quang Trung là niên hiệu của Nguyễn Huệ, song giữa trung tâm Sài Gòn lại có đường Nguyễn Huệ, mang tên tộc của ông. Đường Lý Thái tổ ở quận 10 đặt theo miếu hiệu, còn đường Lê Lợi ở quận 1 lại lấy theo tên tộc. Như vậy nên đổi Lê Lợi thành Lê Thái tổ theo cách đặt cho Lý Thái tổ hay đường Lý Thái tổ nên đặt là Lý Công Uẩn cho phù hợp với cách đặt của tên đường Lê Lợi? Đến nay, cách đặt tên theo nhiều kiểu này vẫn chưa có ai nghĩ đến việc thống nhất hoá chúng.

Về tên đường Trần Hưng Đạo
Nói chuyện này cũng giống như ngồi trên chiếc thuyền độc mộc chèo ngược dòng thác bạc đang đổ ầm ầm về phía mình. Vì có dịp đi từ Nam chí Bắc, ta không khó nhận ra các đền thờ mang tên Trần Hưng Đạo. Ai cũng biết đó là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, một trong những danh tướng có công lớn nhất trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông trước và trong thập niên 1280. Song gọi ông là “Trần Hưng Đạo” có hợp lý, hợp quy luật về cách đặt tên, phong tước hay không, đó là chuyện chúng ta “tản mạn” một chút khi trà dư tửu hậu.

Trước hết xin lược qua cách phong tước, đặt tên trong lịch sử để các bạn trẻ (và bạn già nữa) yêu sử có chút ý niệm về chuyện này. Dưới thời quân chủ, tại ít nhất hai nước Trung Hoa và Việt Nam, việc phong tước dựa vào 6 tước chính là vương, công, hầu, bá, tử, nam. Trong mỗi tước, có sự phân biệt cao thấp, chẳng hạn thời Trần, tước Đại vương cao hơn tước vương, thời Nguyễn, tước “nhất tự vương” (một chữ vương, ví dụ Tuy Lý vương), cao hơn tước Quận vương (Tuy Lý Quận vương), tước công từ cao xuống thấp có Quốc công, Quận công, Hương công… Cách dùng chữ đặt tên cho tước cũng khác nhau tuỳ thời. Thời Trần, Lê, triều đình giở sách tìm những từ Hán có nghĩa hay đẹp để phong tước cho các công thần, ví dụ dùng từ “Hưng Đạo” để đặt cho tước vương của Trần Quốc Tuấn, thành Hưng Đạo vương, dùng chữ Chiêu Văn cho Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật, dùng chữ Chiêu Minh cho Chiêu Minh vương Trần Quang Khải…

Thời Nguyễn định cách đặt tên phong tước khác hẳn. Triều Gia Long, phần đông công thần được phong tước Công thì lấy tên mà phong, ví dụ Duyệt Quận công (Lê Văn Duyệt), Thành Quận công (Nguyễn Văn Thành)… Đến các triều sau Gia Long, việc đặt tên phong tước lại theo một cách khác nữa. Triều Thiệu Trị định rằng tước Quốc công, Quận công thì lấy tên phủ mà đặt, tước Hầu lấy tên huyện, tước Bá lấy tên tổng, tước Tử lấy tên xã, và tước Nam lấy tên thôn. Thí dụ ở trường hợp Vĩnh Lại Quận công Nguyễn Hữu Đệ thì hai từ Vĩnh Lại là tên của một phủ.

Dù việc đặt tên, phong tước có theo cách nào thì trong một tước hiệu, như tước vương, từ cốt lõi là từ “vương”, chứ không thể là từ nào khác. Những từ Hưng Đạo, Chiêu Minh, Chiêu Văn … chỉ có tác dụng làm đẹp cho tước hiệu, phân biệt tước này với tước kia, tự chúng không thể thay thế toàn bộ tước hiệu được. Ví dụ với Bình Định vương Lê Lợi, ta không thể tách bỏ từ vương của ông để rồi ghép vào tên ông thành Lê Bình Định, hay với Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, không thể gọi là Nguyễn Bắc Bình. Vậy mà với Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, không biết tự bao giờ, chúng ta đã ngắt bỏ chữ vương trong tước hiệu của ông rồi ghép vào tên thành “Trần Hưng Đạo”. Ta nhìn thấy tên này, nghe tên này nhiều quá thành quen, song nếu suy cho cùng đối với vấn đề đặt tên, phong tước, ta sẽ thấy đây là trường hợp độc nhất vô nhị, không có trước mà cũng chẳng có sau. Không rõ các bậc thức giả có cách giải thích nào cho việc này không?

Lê Nguyễn
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

NGUYỄN TRÃI


Nguyễn Trãi (1380-1442) (阮廌), hiệu là Ức Trai (抑齋), quê ở xã Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc nay là huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông là con của ông Nguyễn Phi Khanh và bà Trần Thị Thái, là cháu ngoại của Tư đồ Trần Nguyên Đán.

Lúc còn ít tuổi Nguyễn Trãi đã tỏ ra rất ham học. Điều đó được thân phụ ông nói đến trong bài thơ “Gia viên lạc”:

Cố viên loạn hậu hữu tiên lư,
Lục tuế nhi đồng phả ái thư.
(Sau loạn, trong vườn cũ còn mái nhà xưa,
Đứa trẻ sáu tuổi đã ham đọc sách.)
Thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào Bắc thuộc lần 4, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách đô hộ của nhà Minh. Ông trở thành mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn trong việc bày tính mưu kế cũng như soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.

Ông từng đề xuất một diệu kế nhằm tuyên truyền thanh thế cho nghĩa quân Lam Sơn. Ông dùng nước cơm trộn mỡ viết vào nhiều lá cây tám chữ:

“Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (黎利為君, 阮廌為臣)
nghĩa là “Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi”, với ý đồ khiến đàn kiến ăn mỡ khoét thành chữ trên mặt lá, rồi lá theo dòng nước trôi đi các ngả như tin báo từ trên trời xuống. Tuy vậy, một số tướng lĩnh khác như Lê Sát, Phạm Vấn, Lê Thụ bất bình vì cho rằng Nguyễn Trãi quá cao ngạo và coi thường họ, những người đã chịu nhiều lao khổ từ khi cuộc khởi nghĩa còn trong trứng nước. Đinh Liệt hoà giải mâu thuẫn bằng cách đề nghị Nguyễn Trãi đổi lại thành:
“Lê Lợi vi quân, bách tính vi thần” (黎利為君, 百姓為 臣),
nghĩa là “Lê Lợi làm vua, trăm họ làm tôi”.

Thế là tin Lam Sơn khởi nghĩa truyền đi khắp nơi, khiến cho mọi người hết sức tin tưởng vào tương lai của nghĩa quân.

Kháng chiến thành công, ông thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo” nổi tiếng.

Ông là khai quốc công thần và là văn thần có uy tín ở thời đầu nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông.

Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông được coi là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá của Việt Nam.

Ông để lại rất nhiều trước tác văn chương, cả bằng chữ Hán và chữ Nôm, bao gồm các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, luật pháp, lễ nghi ... song đã bị thất lạc sau vụ án Lệ Chi Viên. Các tác phẩm còn lại đến nay của ông, phần lớn được sưu tập và tập hợp trong bộ Ức Trai di tập của Dương Bá Cung, được khắc in vào năm 1868 đời nhà Nguyễn.

Các tác phẩm chính khác:
Quân trung từ mệnh tập
Bình Ngô đại cáo
Lam Sơn thực lục
Vĩnh Lăng thần đạo bi
Dư địa chí
Băng Hồ di sự lục

Quốc âm thi tập là tập thơ bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, gồm 254 bài thơ, chia làm 4 mục.
1/
Thơ đùa ả bán chiếu :

Tương truyền một hôm Nguyễn Trãi dạo chơi bên Hồ Tây, trời đã sẩm tối, ông gặp người con gái đi bán chiếu, nhan sắc tuyệt trần, ông liền đọc bỡn bốn câu thơ quốc âm:

Ả ở đâu ta bán chiếu gon?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn?
Xuân thu phỏng độ chừng bao tuổi?
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Cô gái bán chiếu ấy tên là Nguyễn Thị Lộ, vốn xuất thân là con nhà gia thế sau vì cửa nhà sa sút phải đi bán chiếu, nên văn chương chữ nghĩa cũng không phải xoàng, lại cũng rất giỏi thơ Nôm bèn đọc ngay một bài tứ tuyệt đáp lại:

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon.
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu tuổi mới trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Nguyễn Trãi thấy Thị Lộ đã có nhan sắc lại thao văn từ, liền lấy nàng làm thiếp.
Chẳng bao lâu, nàng lại được phong làm Lễ nghi nữ học sĩ trong triều và được Lê Thái Tông rất quý mến. Rồi cũng chính vì thế mà sau đó, gây nên tấn thảm kịch rất đáng thương tâm cho gia đình và họ hàng Nguyễn Trãi.

Nguyên sau hồi Lê Thái Tổ mất, Nguyễn Trãi bị bọn gian thần gièm pha nên đã phải xin về nghỉ ở Côn Sơn. Nhưng chẳng được bao lâu, ông lại bị triệu ra làm quan. Một hôm, Lê Thái Tông đi duyệt binh ở xứ Hải Dương về, dọc đường nhà vua ngủ lại ở Lệ Chi Viên, thuộc huyện Gia Định đất Kinh Bắc (nay thuộc thôn Đại Lai, xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Hôm đó, Thị Lộ cũng được triệu tới hầu hạ nhà vua ở nơi hành tại (cung vua nghỉ tạm ở dọc đường). Sớm hôm sau, vua mất một cách đột ngột. Bọn gian thần nhân đấy tìm cách hại Nguyễn Trãi. Chúng vu oan cho ông tội xúi giục Thị Lộ giết vua, rồi đem tru di cả ba họ nhà ông. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới xuống chiếu giải oan cho ông.
2/
Thơ ghen vẫn tình :
Tương truyền, Nguyễn Thị Lộ chẳng những có nhan sắc mà thơ phú văn chương cũng tài giỏi. Nàng sở trường về thơ quốc âm và Đường luật, thường cùng xướng hoạ với Nguyễn Trãi hàng trăm bài rất tương đắc. Sau khi về làm thiếp Nguyễn Trãi được ít lâu, vua Lê Thái Tông nghe đồn Thị Lộ có tài văn chương, đã cho triệu nàng vào cung, giao cho giữ chức Lễ nghi nữ học sĩ để dạy phép tắc cho các cung nữ. Vì mến tài, mến sắc, nhà vua thường cùng Thị Lộ đàm đạo văn chương. Có khi lại giữ Thị Lộ ở lâu trong cung, tỏ ý quyến luyến không nỡ rời xa. Chuyện đó không tránh khỏi lời dị nghị trong quần thần cùng đám cung nữ.

Rồi tiếng đồn cũng đến tai Nguyễn Trãi; ông vừa nhớ, vừa ghen, đã gửi Thị Lộ bài thơ, lấy chữ “tình” làm vận. Thơ như sau:

Thiên cao địa hậu tứ thời thanh,
Khả trách hà nhân đạo bất minh.
Kính diện tuy thanh trần dĩ nhiễm,
Đức tâm phương nhuệ dục tuỳ tranh.
Nhân thanh tằng hựu Chu vương đức,
Thệ chỉ tương đam Hán đế tình.
Hạnh đắc thiên nhân tương bán trợ,
Tất nhiên xã tắc cánh xuân sinh.

Dịch thơ:
Trời cao đất rộng bốn mùa thanh,
Đáng trách cho ai đạo chẳng minh.
Mặt kính gương trong nhơ đã vấy,
Đức cao dù đẹp dục còn tranh.
Chu vương từng học lòng nhân đức,
Hán đế còn đam chuyện ái tình.
May được trời người cùng hiệp trợ,
Nước nhà ắt hẳn lại hồi sinh.
Thị Lộ đọc thơ, biết Nguyễn Trãi có ý nghi ngờ mối quan hệ giữa nàng với nhà vua, nhất là câu “Kính diện tuy thanh trần dĩ nhiễm” (Mặt kính gương trong nhơ đã vấy) khiến nàng vô cùng đau lòng, nàng đã theo nguyên vận gửi cho Nguyễn Trãi bài thơ rằng:

Đan tâm khẩn khẩn sự do thành,
Thuỳ vị cương thường đạo bất minh.
Nhật hoả hà ưu vân thốn điểm,
Mộc cù khởi phụ cát tuỳ tranh.
Anh hùng miễn đại anh hùng chí,
Nữ tử phi nhi nữ tử tình.
Phúc quyến thiên duyên cầm sắt hợp,
Nghiệm chư tôn tử thánh hiền sinh. Dịch thơ:
Lòng son khăn khắn việc mong thành,
Ai bảo cương thường đạo chẳng minh.
Ngày nắng sao lo mây chút gợn,
Cây cao há ngại sắn leo tranh.
Anh hùng gắng giữ anh hùng chí,
Phận gái đừng theo phận gái tình. (1)
Phúc luyến duyên trời cầm sắt hợp,
Nghiệm xem con cháu thánh hiền sinh.
(1) Cả câu nầy ý nói, tuy phận gái nhưng không theo thói nữ nhi thường tình.

Thị Lộ đã khéo léo, mềm mỏng, giãi bày lòng mình với Nguyễn Trãi. Nàng vì lo hoàn thành công việc trong cung nên ít về nhà, chớ chẳng có gì mờ ám. Ý thơ cũng nói rõ, mình trong sáng thì ngại gì những lời dị nghị. Lại tôn vinh ông là cây cao, là bậc anh hùng. Mong hai người hoà hợp sắt cầm, để chung hưởng hạnh phúc dài lâu mà xem con hiền cháu thánh …


Nguyễn Trãi xem thơ hoạ, chắc cũng đẹp ý, nên không trách móc gì Thị Lộ nữa. Rồi khi nhà vua ngự giá đến Lệ Chi Viên, ông cũng bằng lòng để nàng cùng thưởng ngoạn phong cảnh với đức vua. Đáng tiếc, chính tại Lệ Chi Viên, nhà vua đã mất một cách đột ngột, khiến cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đều bị tội chết. Song, dư luận đương thời đều cho rằng Nguyễn Trãi bị hại, phải chết oan, cũng chính là vì Thị Lộ gây nên.

Có hai dư luận về việc này: Một là theo huyền tích dân gian, nói Thị Lộ chính là hoá thân của rắn, lấy ông cốt để báo oán, vì trước kia, ông sai học trò dọn cái gò để làm nhà học, đã xúc phạm đến một ổ rắn, làm con rắn mẹ bị thương. Để báo thù, sau khi vua chết, Thị Lộ đã khai là do Nguyễn Trãi xui nàng giết vua. – Hai là vì Thị Lộ có nhan sắc, để vua mê đắm, đêm ở Lệ Chi Viên, do nhà vua đã ngủ với nàng, nên bị cảm mà chết. Lỗi do vua, nhưng cũng có phần trách nhiệm của Thị Lộ.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

PHÙNG QUÁN-[1]

N
1.
GẶP GỠ

Tôi chơi thân với Hải Bằng từ cuối năm 1966, lúc Hội Văn Nghệ và Ty Văn hoá còn sơ tán lên làng Phú Vinh. Qua Hải Bằng tôi được biết rất nhiều về cuộc đời và con người Phùng Quán. Trước đó những năm đầu 60 tôi đã đọc cuốn “Bọn Nhân văn-Giai phẩm trước toà án dư luận”cùng rất nhiều bài viết khác, thông qua Hà Nhật thầy giáo dạy văn và bạn bè cùng học cấp 3 Quảng Bình cho mượn. Chưa gặp nhưng tôi đã trọng, vì đó là con người khác người. Chữ “người” thời ấy gần như  cùng chung mẫu số. Ai cũng như ai, khó mà bộc lộ cá tính trước đám đônCuối năm 1973 tôi theo học trường Bồi dưỡng Những người viết văn trẻ ở Quảng Bá. Thật may mắn. Tôi nói với Hải Bằng, em học ở Hà Nội, có dịp anh ra chơi để được gặp anh Phùng Quán. Hải Bằng chưa ra, Phùng Quán đã lên Quảng Bá thăm chúng tôi, hỏi thăm Hải Bằng và tình hình Quảng Bình.

Hồi đó một lời nói trực tiếp sốt nóng hơn thư từ. Thư  gửi đi có lúc sáu, bảy tháng mới nhận được. Phùng Quán đèo tôi về nhà mẹ nuôi. Một căn nhà lá nền đất, nằm sau lưng đình Nghi Tàm bên Hồ Tây. Ông tự ghép lấy chiếc ghế bằng cành ổi, ngồi lâu ngày đôi tay vịn nhẵn bóng. Bà cụ Hai Dơi suốt ngày gánh hàng lặt vặt lên đê Yên Phụ bán cho người qua đường. Ông vội vã nấu cơm tiếp tôi, rồi ra đường đỡ gánh cho bà cụ vừa về. Đêm ấy, lần đầu tiên tôi được gặp con - người - nhân - văn bằng xương bằng thịt. Ông  mặc một thứ vải thô nhuộm nâu, chân guốc mộc. Tại nơi đó, cũng  lần đầu tiên tôi được nghe nhiều bài thơ ông. Tôi không sao quên được cái giọng đọc pha ngâm, trầm và ấm: Hồ khuya sương tịch mịch/ Trộn nước lẫn cùng trời/ Con dế chân bờ dậu/ Nỉ non hoài không thôi.../ Tựa lưng ghế cành ổi/ Vai khoác áo bông sờn/ Tôi ngồi đọc Đỗ Phủ/ Vợ vừa nghe vừa đan. Ba mươi năm ly quê, cho tận mãi sau này cái giọng vẫn thế, vẫn Huế mà rất Phùng Quán. Rồi ông im lặng, không khóc, nhưng tôi biết ông đang xe xót chìm trong mờ ảo khói thuốc lào rít sau mỗi bài thơ.

Không sai lời hẹn, Hải Bằng ra Hà Nội. Sau bao năm xa, kể từ ngày ông vác ba lô về làng Cảnh Dương, rồi làm phát hành sách cho ty Văn hoá. Đến nơi, Hải Bằng dục tôi đèo xe tìm Phùng Quán. Ánh điện nhập nhoà, đường về bà mẹ nuôi đất đá gồ ghề, chúng tôi phải xuống xe đi bộ. “Anh đi từ sáng đến giờ chưa về, giờ không về là ở lại rồi.” - Bà cụ Hai Dơi nói vậy. Chúng tôi đến 3- Hàng Cân , nhà chị Bội Trâm, vợ Phùng Quán đang ở. Đường phố vắng hoe, Hải Bằng cứ đứng giữa lòng đường  gọi hết cỡ:

- Quán ơi. Quán ơi. Quán ơi!..
Không có tiếng đáp lại. Hải Bắng sốt ruột:
- Phùng Quán ơi! Phùng Quán ơi!...

Tôi hiểu vì sao Phùng Quán chưa trả lời. Những năm đó bài viết đánh Nhân văn chỉ còn lác đác, vì tất cả dồn sức vào cuộc chiến. Nhưng không vì thế mà cuộc đấu tranh chống Nhân văn đã kết thúc. Một tiếng gọi có thể thân thiết, cũng có thể vận hạn. Hơn nữa Phùng Quán không muốn trong đêm thanh vắng lại oang oang hai tiếng Phùng Quán, gắn với vụ án văn chương. Từ gác hai, Phùng Quán mở cửa nhìn xuống, hớt hãi:

- Tôn à. Nhỏ thôi, nói nhỏ thôi, ra khi mô rứa? (Tôn tức là Vĩnh Tôn, tên chính của Hải Bằng).

Đã lâu quay quắt nhớ, quay quắt gặp, nhưng Hải Bằng vẫn xẵng:
- Mi hỏi tao ra khi mô là răng? Tao ra là đến mi liền, chứ còn đi mô nữa?
Hai người ôm lấy nhau. Hải Bằng khóc hu hu như trẻ nhỏ. Chúng tôi kéo nhau đi ăn, dốc hết tâm sự tới sáng
2.
NHỮNG ĐÊM NGỦ.

Phùng Quán có tới ba nơi ở, Nghi Tàm, 3-Hàng Cân và Lê Văn Hưu. Mùa đông tôi thường xuống Nghi Tàm ngủ lại. Có khi Phùng Quán nấu thêm cơm, hẹn xuống, có khi nạo cơm cháy qua loa, rồi chuyện trò. Những bài thơ tôi viết hồi đó ông đọc hết và còn góp ý để tôi sửa lại.

Tôn Ái Nhân, Trần Anh Trang cùng phòng, thường bảo tôi là đứa ham chơi, ít khi ở nhà trọn một ngày. Tôi nói có việc mình mới đi. Có người gặp tôi đi theo Phùng Quán, nhắc nhở, lãnh đạo biết đấy. Tôi kệ. Gặp được con - người - khác - người này là  quý hoá, là may mắn cho mình.

Một buổi chiều tôi vừa bước vô nhà đã gặp người khách lạ. Chưa kịp chào, anh ấy đã tự giới thiệu:

- Mình là Tuân Nguyễn. Mình nghe nói Hoàng Vũ Thuật từ Quảng Bình ra, đang chờ cậu tới đây.
- Cám ơn, chắc chắn anh Quán kể  chứ gì.

Tuân Nguyễn vừa ở tù ra sau gần chín năm bị giam vô cớ. Không bản án, không luận tội. Anh bị bắt cũng như được thả, đều mù mờ. Tuân Nguyễn làm ở Đài Tiếng nói Việt Nam, đẹp trai, dong dỏng cao, đeo kính trắng. Phùng Quán nói với tôi, Tuân Nguyễn sẽ tá túc vài ngày, nhờ bạn cho chiếc xe đạp đi lại. “Tĩnh dưỡng” cho khoẻ rồi Tuân Nguyễn sẽ tìm cách dịch thuê mà sống. Tĩnh dưỡng là nói vậy chứ  vợ chồng Tuân Nguyễn chỉ ăn cơm với rau muống luộc, chấm nước mắm hết ngày này qua ngày khác. Đêm lạnh, tôi được nằm giữa. Ba người đắp chung cái chăn bông sờn. Khi Phùng Quán kéo thì Tuân Nguyễn hụt, khi Tuân Nguyễn kéo thì Phùng Quán hụt. Chỉ có tôi được ấm. Tôi bảo, đổi chỗ em nằm ngoài cho. Tuân Nguyễn ôm lấy người tôi: “Chín năm anh quen cái lạnh rồi. Em ngủ đi mai còn về trường, khéo mà ngủ gục”. Phùng Quán ho lốc khốc. Bà Hai Dơi nói vọng: “Không biết đến bao giờ mới hết lạnh”.

Tết tôi về Quảng Bình. Tuân Nguyễn gửi thư cho người bà con tập kết đang làm cán bộ có chức vụ trên huyện, gia đình sinh sống gần làng tôi. Anh dặn khi nào ra cậu ghé lại hỏi thăm, có gì gửi không. Tôi ghé nhà, trước lúc ra Hà Nội, người bà con không gửi gì, kể cả thư tay, chỉ nói: “Cậu ấy làm, cậu ấy chịu”. Tuân Nguyễn cùng Phùng Quán nghe thuật chuyện. Phùng Quán nói, nằm trong tù chẳng ngán, chuyện vặt.

Nhiều lần đến Nghi Tàm không gặp, tôi lên 80- Lê Văn Hưu (hồi đó là nhà khách Bộ Văn hoá). Phùng Quán được bố trí ở trong buồng  một toilét không dùng nữa. Ông phủ lên mặt toilét cái thùng gỗ làm chỗ viết. Mùa đông lót báo dưới, trải chiếu lên trên. Nhiều khi ông và tôi không nói gì. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ hoặc công việc gì đó. Ông thường hài hước: “Ở thế này là sang lắm rồi, tầng hai hẳn hoi”. Còn tôi thì thương cho cái kiếp lao đao của nhà thơ có đến ba nơi ở mà chỉ là nơi tạm trú mà thôi. Sáng dậy, chúng tôi ra chợ Đồng Xuân  ăn bún thang. Thứ bún thêm vào thìa ruốc nêm, ông rất thích. Về tới trường, lại có người nhắc nhở đừng chơi với Phùng Quán, người ta theo dõi đấy. Tôi không để ý tới câu nói, vì mình có làm việc gì đâu. Chính nhờ Phùng Quán tôi mới gặp Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Cung và một số người khác. Phùng Cung chép đề tặng tôi bài thơ: Đêm nay sương mặn/ Bên gốc na/ Con dế khoang gãy giong/ Đợi người về/ Ngọn đèn chai/ Tãi sáng nước dưa. Một ngọn đèn hiu hắt màu nước dưa chỉ đủ soi cho trang giấy. Đêm đêm được Phùng Quán khêu lên, ngồi hút thuốc lào, bóng mờ in lên vách, bên Hồ Tây để viết “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”.
3.
IN SÁCH PHÙNG QUÁN.

Đầu năm 1981, tôi được điều chuyển từ Quảng Bình vào Huế nhận công tác Phó trưởng Ban biên tập nhà xuất bản Thuận Hoá. Một ngày cuối xuân năm 1982, tôi đến muộn. Trên bàn tôi đã có bản thảo “Buổi đầu thử thách” của Đào Phương, với dòng chữ ghi: Anh Thuật tổ chức biên tập để in đúng kế hoạch. Ký tên Vương Hồng. Tôi mừng thầm. Đây rồi, lại gặp nhau. Bởi tôi đã đọc nó vào tháng 4, tháng 5 gì đó tại căn gác toilét Lê Văn Hưu. Bấy giờ không có hai chữ Đào Phương, mà là Phùng Quán. Nét chữ nghiêng đều đặn, mực tím không lẫn vào đâu được. Khác chăng bản thảo bị gạch xoá khá nhiều. Chắc đã qua tay một người đọc. Tôi tìm cách thông tin cho Phùng Quán. Ông viết mấy dòng rất kín đáo: Cứ làm cho anh, anh xin Đào Phương rồi. Cẩn thận. Tôi đã gặp Đào Phương, tác giả cuốn “Thồ Điện Biên” ở Hà Nội, bây giờ không hình dung nổi. Tôi hỏi ông Lê Trọng Sâm, Phó tổng biên tập. Ông ấy bảo mình  rất biết, giúp Đào Phương với. Lặng lẽ đọc lần nữa, cố lấy lại những đoạn không nên bỏ, giữ lại những chữ cần thiết, rồi tôi giao cho cô Loan đánh máy, ký tên biên tập, trình Tổng biên tập duyệt.

           Năm 1983 sách đến tay Đào Phương cùng nhuận bút do Lê Trọng Sâm và tôi ra Hà Nội giao tại nhà. Đào Phương cười nói vui vẻ, cám ơn tôi. Có lẽ Đào Phương tưởng rằng tôi không biết bản thảo này là của Phùng Quán. Hồi ấy, tuy đất nước đã thống nhất mấy năm, nhưng vẫn còn cách nhìn cách nghĩ cũ kĩ, ràng buộc lắm thứ. Chưa đổi mới. Cánh Nhân văn - Giai phẩm im lặng chờ đợi. Giả dụ sự việc ấy mà lãnh đạo nhà xuất bản biết, muốn hay không tôi sẽ bị đuổi việc ngay lập tức. Cho dù tôi nói là tôi không biết. Tôi tin cho Phùng Quán khoản nhuận bút và sách tác giả. Sau này, ông bảo tôi, Đào Phương cho lại mình một ít. Tôi không rõ là bao nhiêu, nhưng đối với ông là quý lắm, theo cách nghĩ của ông. “Buổi đầu thử thách”, chính là tập một của ba tập tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội” sau này.
4.
PHÙNG QUÁN ĐỌC THƠ Ở HUẾ, IN THƠ Ở ĐÀ NẴNG.

Tôi đang dẫn chương trình Đêm thơ tại 26-Lê Lợi, do Phân hội Văn học tổ chức. Vinh Nguyễn nói nhỏ vào tai: “Anh Phùng Quán và chị Hương Quân ở Hà Nội vừa vào”. Tôi ra cửa đón ông và chị, đồng thời giới thiệu với Nguyễn Khoa Điềm. Anh Điềm bắt tay thăm hỏi, nhắc tôi giới thiệu Phùng Quán đọc thơ nữa nhé. Sau vài lời phi lộ,  Phùng Quán chắp tay như cúng lễ đọc ngay bài thơ Tạ:

Ngày ra trận
Tóc tôi còn để chỏm
Nay trở về
Đầu đã hoa râm
Sau cuộc trường chinh  ba mươi năm
Quỳ rạp trán xuống đất làng
Con tạ...

Rồi ông quỳ rạp thật. Ông đứng lên trong tiếng vỗ tay không ngớt. Đêm thơ lắng lại để nghe Phùng Quán đọc tiếp những bài thơ khác. Nếu tôi không nhầm, năm 1986, đêm đầu tiên trở về quê hương, sau bao năm xa cách và lần đầu tiên ông đọc thơ tại nơi chôn rau cắt rốn của ông. Mặc dù bài Tạ được ông viết từ 1975. Những ngày sau đó ông trở thành khách quý của những người ngưỡng mộ ông. Đám trẻ tuổi chúng tôi thường theo ông để được “ăn theo”, “uống theo” “nói theo” cho có bạn.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

PHÙNG QUÁN-[2]


Một năm sau, Phùng Quán vẫn chưa về nhà. Hương Quân đã ra Hà Nội. Ông nói với tôi, khi đi anh nói với chị ra phố mua bao thuốc lá. May mà bấy giờ đã có điện thoại liên lạc, không thì đã phải báo mất tích từ lâu.

Phùng Quán vào Đà Nẵng. Ông đọc thơ tại Nhà hát  thành phố, ở huyện Điện Bàn và nhiều nơi khác. Trở lại Huế, ông cầm xấp báo Đà Nẵng chủ nhật, ra ngày 15/2/87, đăng “Trường ca cây cà”, ký tặng bạn bè. Tôi được một tờ. Đầu chương một, ông viết: Ba mươi năm trước/ Tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ/ Tôi lại hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang/ Chính cây cà quê mùa lao lực/ Đã dạy tôi dũng khí bền gan! Đó là bài thơ đầu tiên ông in tên thật của mình, mãi sau tạp chí Sông Hương mới tiếp tục đăng những bài khác.
5.
KIỂM ĐIỂM VÌ PHÙNG QUÁN.
       
Chia tỉnh, tôi về lại Quảng Bình làm Tổng thư ký (Chủ tịch Hội bây giờ). Gần hai năm sau, đầu tháng 4/1991, Phùng Quán từ Hà Nội vào thăm chúng tôi. Mừng lắm, không ngờ lại  được gặp ông sau ngày chia tỉnh. Tôi hội ý với Ban thư ký rồi lên kế hoạch, đồng thời đi cùng ông trên chiếc xe la-đa cũ, tài sản lớn nhất được chia ra từ Hội Bình Trị Thiên.

Chiều 12/4 chúng tôi đến Hoàn Lão. Ông Lê Chiêu Nẫm-Bí thư Huyện uỷ Bố Trạch và anh Thoan - Trưởng Ban Tuyên giáo niềm nở đón tiếp chúng tôi. Anh Thoan dẫn chúng tôi về giao lưu với Trường Bồi dưỡng giáo viên của huyện. Sau buổi tiếp xúc ấy, trường Phổ thông trung học số 1 đăng ký mời Phùng Quán nói chuyện thơ. Hôm sau trên đường về anh Thoan tìm gặp xin chuyển địa điểm về nhà Văn hoá trung tâm để bà con thị trấn được nghe nữa. Cuộc nói chuyện không thành. Họ gọi điện thoại cho tôi xin hoãn. Tôi hỏi, vậy thì bao giờ có thể tổ chức? Họ trả lời không biết nữa.

Thế nhưng Phùng Quán vẫn tiếp tục được mời nói chuyện ở trường Phổ thông trung học Đào Duy Từ và trường Cấp 2 Đồng Mỹ. Người nghe đứng chật ra tận hành lang. Anh Lại Minh Thương, bạn tôi, học sinh cũ của trường cấp 3 Quảng Bình, là đội trưởng hợp tác xã đánh cá Hồng Mỹ, Bảo Ninh nghe tin, mời Phùng Quán và tôi sang nhà thết đãi, nghỉ lại đọc thơ cho xóm giềng. Tôi sung sướng và cảm động. Đâu đâu người ta đều ngưỡng vọng nhà thơ, muốn được nghe thơ, được nhìn rõ con - người - nhà - thơ như thế nào. Đó là dấu hiệu văn hoá lành mạnh. Ông nói chuyện say sưa, đọc thơ say sưa, hồn nhiên như người “cấm khẩu” lâu ngày bỗng nhiên bật lên tiếng nói. Không lần nào giống lần nào, con người ấy có sức cảm hoá đến kỳ lạ. Vẫn cái giọng trầm và ấm, cái giọng trải qua nhiều cay đắng nghiệt ngã, kiên gan trước cuộc đời ba động, đã đúc nên thứ âm thanh như có thần phép kia.
Nhưng tất cả những cuộc đi đâu về đâu đều có người theo dõi. Chúng tôi đi là họ đến. Họ cấm không được tổ chức gặp gỡ, đọc thơ hay nói chuyện gì nữa. Phùng Quán là Nhân văn.
Những ngày lưu lại nhà tôi đã thành một sự kiện.

Tôi nhớ sáng nào vợ tôi cũng dọn sẵn trên bàn một chén cà sống, bát ruốc, góc chai rượu ngon. Khi thì đĩa bánh cuốn, khi thì cháo trắng. Những thứ hợp khẩu với ông. Tôi cụng với ông một ly, nhấm nháp qua loa để đến cơ quan kịp giờ làm việc. Ông ngồi bên chai rượu cho tới khi tôi về để còn đi thăm những người quen biết.

Thế rồi đột ngột tỉnh giao tôi nhiệm vụ tháp tùng đoàn của Bộ Văn hoá lên hai huyện Tuyên Hoá và Minh Hoá. Ông rất muốn theo tôi. Khi hỏi đi cùng ai, ông bảo, mình trở thành kẻ bị săn đuổi tới nơi rồi. Thôi đi đi, mình không đi nữa. Tôi bàn với ông lên nhà Hải Kỳ, ở chơi vài ngày đợi tôi về. Ông ừ. Sau này được Hải Kỳ kể lại, ông và Hải Kỳ vừa ra khỏi nhà, lập tức công an vào hỏi. Minh Văn con trai Hải Kỳ,đang học cấp hai, khôn khéo đem giấu cái bị cói của Phùng Quán ra sau bàn thờ, không thì họ lấy cũng nên.

Quả như vậy, khi tôi về đã thấy giấy mời lên làm việc với Thường vụ Tỉnh uỷ. Người trực tiếp gặp tôi là ông Phó Bí thư Thường trực cùng một số người nữa. Ngồi vào bàn ông  nói ngay: “Anh là cán bộ lãnh đạo Hội. Phùng Quán là ai, anh biết rồi đấy. Gần nửa tháng qua anh đưa anh ta đi đâu, gặp gỡ ai, nói chuyện gì”. Tôi trả lời ngay không cần nghĩ ngợi: “Phùng Quán là nhà văn thế hệ chống Pháp. Năm 1988 anh đã được phục hồi hội viên. Anh công tác ở cơ quan văn phòng Bộ Văn hoá, đã từng in...” Chưa dứt lời ông cắt ngang với hai hàm răng rít chặt: “Không nói nhiều, anh về viết bản kiểm điểm gửi cho chúng tôi. Cần nhớ rằng anh thuộc diện cán bộ chúng tôi quản lý...”. Tôi không đáp lại nữa. Ra về mà lòng cứ ấm ức. Chẳng lẽ thế? Chẳng lẽ người ta vẫn còn kỳ thị, nghi ngờ đến thế? Phùng Quán đã xuất hiện ở Huế, lúc ông làm Phó Giám đốc Công an cơ mà. Ông không biết Phùng Quán đã đọc thơ và nói chuyện nhiều nơi, đã in trên báo Đà Nẵng và tạp chí Sông Hương hay sao. Vả lại, hồi năm 81, 82 khác. Năm 86, 87 đất nước đã đổi mới, văn nghệ được cởi trói. Giờ đã là 91. Ông định làm gì nữa đây?

Tôi về nhà viết bản kiểm điểm gửi cho bốn tổ chức, Thường vụ Tỉnh uỷ, Đảng Đoàn Văn nghệ, Ban Thư ký, Chi bộ cơ quan Hội. Những dòng tôi trích dưới đây y nguyên trong bản đánh máy trên mặt giấy pơ-luya màu thẩm hồi đó. Tất nhiên tôi phải mất hẳn một buổi tìm lại từ “thư viện gia đình”. Tính tôi luộm thuộm, không ngăn nắp như người ta. Mở đầu tôi viết: “Nhà văn Phùng Quán, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, tác giả tiểu thuyết “Vượt Côn Đảo”, gần đây với bộ tiểu thuyết ba tập “Tuổi thơ dữ dội” được tặng thưởng văn học của Hội nhà văn, chuyển dựng thành phim được tặng thưởng phim hay năm 1990...”

Không lâu, trên một trang báo Nhân Dân, in danh mục những phim chiếu phục vụ trong dịp Đại hội Đảng, có “Tuổi thơ dữ dội”. Trang năm, cuối bản kiểm điểm ở phần nhận khuyết điểm, tôi thẳng thừng: “Song không khí hôm Thường trực Tỉnh uỷ làm việc, rõ ràng là nặng nề. Có một số việc tìm hiểu chưa cụ thể vội vàng kết luận. Thí dụ: Đồng chí Phó Bí thư Tỉnh uỷ cho rằng, tôi phải chịu trách nhiệm trước Thường vụ toàn bộ sự việc trên. Đồng chí còn nói: Tôi đã bất chấp chỉ thị cấp trên, tiếp tục tổ chức để anh Phùng Quán nói chuyện hai nơi (tức trường Phổ thông trung học Đào Duy Từ và trường Cấp 2 Đồng Mỹ), lại còn qua cả Bảo Ninh.

Tôi là một nhà văn, được Thường vụ giao trọng trách quản lý Hội Văn Nghệ, tôi có nhân cách và lòng tự trọng của mình. Việc gì chưa rõ ràng thì cần được nhắc nhở trao đổi rút kinh nghiệm, sai trái thì kiểm điểm, cao hơn thì kỷ luật. Nhưng không thể xử sự với tôi bằng một thái độ vội vã kết luận, khẩu khí căng thẳng khi chưa điều tra kĩ lưỡng. Việc đó rõ ràng không tạo thuận lợi cho tôi trong việc quản lý Hội và đội ngũ văn nghệ sĩ trong tình hình còn phức tạp hiện nay”.

Bản kiểm điểm gửi đi. Họ im lặng không tiếp tục hành xử tôi nữa. Nhưng rõ ràng tôi không gặp thuận lợi về sau .

Khi Phùng Quán được Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Tôi định cầm mấy bộ sách tuyển tập thơ, tiểu thuyết của Phùng Quán và những cuốn khác do Ngô Minh biên soạn đến nhà ông phó bí thư, chỉ để nói với ông một câu. Ông thấy không, cái bằng chứng này cao hơn cả. Nếu Phùng Quán có gia đình ở đây, chắc ông phải ngậm ngùi tổ chức lễ trao Giải thưởng Nhà nước cho Phùng Quán. Mặc dầu ông đã nghỉ hưu lâu rồi. Nhưng chuyện đời, lẽ sống con người đâu có nghỉ hưu!
6.
LỄ TRUY ĐIỆU CÓ MỘT KHÔNG HAI.

Tôi thường tâm sự với lớp trẻ, đã làm nhà văn phải có hai nhân cách. Nhân cách sống và nhân cách viết. Nhân cách viết, có thể có nhiều người thành đạt. Nhưng nhân cách sống không hẳn ai cũng được như nhau. Có người im lặng viết, miễn sao tròn một công dân. Có người viết tốt, sống tốt mà vẫn vào vòng lao lý. Phùng Quán thuộc hạng người này. Cả đời ông là một chuỗi đau thương. Nhưng không lúc nào ông chùn bước. Cuộc đời ông, ai đã biết là mến mộ, kính trọng. Ông bị bệnh gần hai năm phải nằm ngửa kê tay vào giá đỡ trước mặt mà viết. Một bàn viết ngược. Xưa nay ông đã viết, phải ngồi vào bàn, dù chiếc bàn ấy là tấm ván, hộp gỗ chăng nữa. Giấy của ông được kẻ dòng như loại giấy vở học trò. Phải là người có khí chất sống, khí chất văn chương mới nghĩ ra cái giá đỡ kỳ quái để viết cho tới dòng sau chót đời mình.

Tôi định bụng bàn với nhà văn Hữu Phương, bấy giờ là phó chủ tịch  Hội, tổ chức lễ truy điệu vọng cho ông. Nghĩ lại, bao nhiêu chuyện còn đó, người ta còn đây. Thử có ích gì? Thế là tôi rủ Hữu Phương cùng một số anh chị em, học sinh yêu văn học lên nhà Hoàng Quang Đông chơi. Đông là thầy giáo, bạn tôi, đã có lần gặp Phùng Quán. Tôi thông báo nhà văn Phùng Quán mất rồi, lúc 16h 50’, ngày 22/01/1995. Tin này nhờ một người bạn điện thoại vào cho tôi hay. Tất cả bàng hoàng. Im lặng. Không ai nói câu gì. Trong khoảnh khắc đó, tôi lấy ra tờ giấy trắng, chiếc bút dạ, ký hoạ rất nhanh chân dung Phùng Quán. Sau này tôi không hiểu vì sao mình vẽ được như vậy. Một chân dung Phùng Quán trăm phần trăm. Gương mặt hơi trẻ. Chân dung ấy tôi ép plastic để trong “thư viện gia đình” như một báu vật.

Không ai bảo ai, người kê tấm ván vuông vức lên chẻ ba cây đào, người hái hoa cắm vào bình, người tìm thứ làm bát hương... Trong làn khói hương thơm phức, tất cả như những pho tượng đứng bất động. Tôi lên tiếng trước: “Chúng em xin cúng vọng anh, một nhà thơ tài hoa, một nhà văn suốt đời chỉ viết trên giấy kẻ dòng, một nhân cách sống hiếm thấy”. Mọi người lặng lẽ bước lên cắm những que hương trên chiếc bàn thờ có một không hai . Thầy giáo Hoàng Quang Đông rưng rưng vừa đọc vừa ngâm bài thơ “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”.
Lúc ấy là 4h chiều ngày 28/01. Sau sáu ngày Phùng Quán từ giã bạn bè người thân ra đi .

HOÀNG VŨ THUẬT
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

VỀ BÀI THƠ CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ
CỦA PHÙNG QUÁN


Ngày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

Sau những giờ phút thiêng liêng, hồ hởi là những ngày tháng gian khổ, cam go. Nước Cộng hoà chiến thắng phải đối đầu với bao thử thách. Tổ quốc mới giành được một nửa, “nửa còn trong lửa, nước sôi” (Tố Hữu).

Ở miền Bắc, sau khi cuốn gói, thực dân Pháp đã để lại cảnh đói nghèo của hơn bảy mươi năm đô hộ và chiến tranh xâm lược; những “cánh đồng quê chảy máu; Dây thép gai đâm nát trời chiều (Nguyễn Đình Thi)”; những lô cốt, boong-ke, bom mìn rình rập trong lòng đất, những nhà máy bị đập phá, tháo gỡ... Tất nhiên là chúng còn để lại chín mươi lăm phần trăm người dân mù chữ, những tệ nạn xã hội khét mùi thực dân và những thế lực thù địch.

Miền Bắc phải gánh chịu trên vai số mệnh lịch sử giao phó: Xây dựng miền Bắc và thống nhất nước nhà. Kế hoạch “Năm năm khôi phục kinh tế”, “thắt lưng buộc bụng”, tích cực lao động xây dựng cuộc sống mới. Những cánh đồng hoang chằng chịt dây thép gai, cỏ dại, ngổn ngang đồn bốt, boong-ke, chiến hào được khai hoang phục hoá. Những nhà máy bị thực dân Pháp tháo gỡ, đặt mìn phá huỷ được công nhân lấy máu mình để bảo vệ bắt đầu sản xuất. Trường học đã vang lừng tiếng hát...

Song bên cạnh những “đổi thịt thay da” ấy đã xuất hiện một khoảng tối. Nạn tham nhũng đã manh nha từ trong kháng chiến mà Bác Hồ đã phê chuẩn bản án cao nhất đối với một đại tá chủ nhiệm quân nhu, một thứ trưởng Bộ Nông nghiệp là một bằng cớ, lúc này có điều kiện nảy nòi, sinh sôi và giờ đây đã trở thành “quốc nạn”. Lúc bấy giờ, Phùng Quán đã dự báo “thói dối trá, đạo đức giả, tệ quan liêu tham nhũng, tuy ngày đó chỉ mới manh nha, nhưng tôi đã dự cảm sẽ là hiểm hoạ khôn lường đang rình phục nhân dân tôi; Đảng tôi; có nguy cơ làm băng hoại những gì thiêng liêng cao quý mà cả triệu người suốt thế kỷ qua không tiếc máu xương để tạo dựng, bảo vệ” (Khai từ - Trăng hoàng cung - PQ.).

“Văn nghệ là một mặt trận. Văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Bác Hồ). Lúc bấy giờ, các chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ được Đảng và Chính phủ yêu cầu đi thực tế “ba cùng với nhân dân” trong những ngày tháng khôi phục kinh tế đầy sôi động và cũng rất gian khổ để mài sắc vũ khí chống lại thù trong, giặc ngoài, ngợi ca “cuộc sống mới, con người mới”. Nhiều nhà văn lên Tây Bắc, Điện Biên đến với những chiến sĩ bạt núi, phá rừng, san bằng lô cốt, boong-ke để xây dựng nông trường, đến với những “chiến sĩ chon von trên chòi canh biên giới” (Lưu Trùng Dương), những chiến sĩ “hải đảo xa xôi đêm ngày sóng bủa”.

Phùng Quán về với những người nông dân Kiến An, Hồng Quảng, Định, Thanh Hoá... Giọt nước mắt nóng hổi của người con miền Nam, người chiến sĩ và nhà văn trẻ thấm ướt bờ vai sần sùi, chằng chịt vết sẹo của những anh hùng bị cực hình tra tấn từ địa ngục Côn Đảo trở về. Phùng Quán đã dâng hiến đứa con tinh thần “Vượt Côn Đảo” cho những người anh hùng vượt ngục, vượt đại dương và cho nhân dân mình. Không ngủ yên trong thành công, Phùng Quán hăm hở “đi với nhân dân thì thơ không thể khác” (Thơ P.Q). Anh về Hồng Quảng, Kiến An, Định... đau xót trước cảnh lúa, khoai, hoa màu bị luộc trên những cánh đồng ướp muối. Anh tham gia lao động cùng với nông dân, cùng với những “bà mẹ già quấn dẻ rách, da đen như củ cháy giữa rừng”, hai bàn tay rớm máu khi mở dây thép gai và san bằng lô cốt, boong-ke, công sự. Bữa ăn của họ toàn củ khoai tím vỏ.

Ở định, nơi các anh thường đi qua có một công trình xây dựng đang bỏ dở. Hỏi ra anh mới biết đó là “Đài xem lễ” (Lễ đài để làm lễ, mít ting, có hội trường để hội họp) ngốn hết mười một triệu đồng rồi nhưng công trình bị rút ruột nên để dầm mưa, giãi gió. Thời ấy, lương của chị công nhân đổ thùng hai mươi bảy đồng tháng “vừa đủ nuôi con”. Nếu tính ra số tiền để dầm mưa, giãi gió ấy có thể cứu hơn bốn mươi vạn người đang ăn vỏ khoai trừ bữa ra khỏi cảnh đói nghèo.

Đi thấy, về thấy, cái “Đài xem lễ” đó như cái đinh chọc vào mắt anh, bắn vào tim anh.
Lệ thường, sau ngày làm việc mệt nhọc, anh thường lang thang với phố phường vừa đi vừa ngẫm nghĩ như đếm từng bước. Anh đã chứng kiến cảnh những chị công nhân vệ sinh trong cơn mưa phùn, gió bấc, rét như cắt da thịt, dưới ánh sáng le lói của ngọn đèn bão múc từng thùng phân từ những hầm xí bị hư hỏng, xì hơi.

Mấy hôm liền, Phùng Quán bần thần như người ốm nghén. Đến cơ quan, gặp ai anh cũng lặng lẽ. Có người bảo: - “Phùng Quán mới có một “Vượt Côn Đảo” mà đã tự cao rồi”.
Khi chơi thân với nhau, xem tôi như người em ruột, anh mới kể về cái đêm anh viết bài thơ “Chống tham ô, lãng phí”:

- “Sau khi lang thang với phố phường về, mình mặc lại cái áo trấn thủ lính, đội mũ nan bọc vải kết dải nguỵ trang, đính quân hiệu, đặt ống điếu thuốc lào như khẩu Bazoka, hướng nòng về phía trước, tay cầm bút, chân gác lên ghế trong tư thế xung phong... viết... viết... viết liên tục, từng chữ, từng câu như trào ra đầu ngọn bút. Ban đầu là những lời “ôn nghèo, kể khổ”, rồi lời thề vang lên (“Tôi quyết rời bỏ... Tôi quyết đúc thơ thành đạn...”), rồi lao lên điểm xạ từng tên (“lớn, bé, nhỏ, to, cao, thấp, bé, gầy”) rồi hô xung phong (“Trung ương Đảng ơi!...”). - Anh hóm hỉnh - “Mình là xạ thủ cấp kiện tướng trung đoàn mà - Viết xong, mình thiếp đi. Tỉnh dậy, trời đã sáng tự lúc nào”.

Anh định gửi bài thơ “Chống tham ô, lãng phí” cho báo Nhân dân bởi trong bài anh đã viết:
“Đến một ngày Đảng muốn phê bình tất cả

E phải nghìn số báo Nhân dân”.

Suy đi, nghĩ lại thế nào anh lại gửi cho báo Giai phẩm mùa thu (Nhân văn và Giai phẩm (mùa thu, mùa đông) là những tờ báo mới ra không bao lâu đã phải chịu số phận của người sinh ra nó).

Bài thơ ra đời đã gây xôn xao dư luận đặc biệt trong giới học sinh, sinh viên, nhà giáo, văn nghệ sĩ... Có người thuộc từng câu từng chữ. Có nhiều người lo ngại cho Phùng Quán. Một người bạn vỗ vai anh: - “Tuyên chiến sớm thế!”

Trong vụ án Nhân văn, bài thơ “Chống tham ô, lãng phí” không bị đấu tố. Bời bài thơ đã điểm xạ chính xác, không có lý để đánh trả. Khi bài “Lời mẹ dặn” in trên tuần báo Văn nghệ (1957), Phùng Quán mới bị phê phán trên báo chí. Khởi đầu là bài thơ “Lời mẹ dặn có phải là bài thơ “Chân thật” của Trúc Chi. Lời phê phán cũng chỉ bằng thơ, trong đó có câu: “Chúng yêu ai? Yêu đĩ điếm cao bồi”. Trúc Chi là tác giả của tập sách “Một đời văn”. Năm 1978, Phùng Quán tìm ra tập sách “Một đời văn” mới biết Trúc Chi là Hoàng Văn Hoan hồi ấy là uỷ viên Bộ Chính trị TW Đảng đã cao chạy, xa bay.

Sau “vụ án chính trị Nhân văn, Giai phẩm”, Phùng Quán bị liệt vào một trong những tên phản động nguy hiểm và bị “cấm bút”. Bài thơ “Chống tham ô, lãng phí” tất nhiên cũng phải chịu số phận cùng tác giả.

Năm 1975, tiếp quản Bộ chỉ huy sư đoàn I nguỵ, lục trong đống hồ sơ lộn xộn của ban II (ban An ninh quân đội), tôi bắt gặp tờ báo Tranh đấu của học sinh, sinh viên miền mà Ban II thu giữ để điều tra đàn áp. Trong tờ báo ấy, có in những bài thơ: Cô gái sông Hương của Tố Hữu; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm; Nhất định thắng của Trần Dần; Màu tím hoa sim của Hữu Loan; Lời mẹ dặn và Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán...

Tôi viết “Sự tích bài thơ Chống tham ô lãng phí của Phùng Quán” lúc Quốc hội khai mạc kỳ họp thứ VIII, khoá XI. Trong chương trình nghị sự có thảo luận và thông qua luật “Chống tham nhũng” sau một thời gian dài dự thảo, thảo luận, trưng cầu ý kiến của nhân dân. Thời gian này, báo Thanh niên mở trang “Tuyên chiến với lãng phí”.

Năm mươi năm về trước, với “Chống tham ô, lãng phí”, Phùng Quán đã tuyên chiến rồi. Và, anh đã bị giáng trả những đòn chí mạng, “đã trả giá cho thơ bằng ba mươi năm tốt đẹp của đời mình” (P.Q). Sau năm mươi năm, lời thỉnh cầu của anh được quan tâm. “Thượng phương bảo kiếm” sẽ được trao tay, đội quân đi trừ diệt tham nhũng sẽ được thành lập, mặt trận mở rộng, không chỉ hàng nghìn số báo Nhân dân mà triệu trang báo của nghìn tờ báo khắp trên đất nước thống nhất đã châm ngòi nổ. Chỉ tiếc rằng: “Đi trong đội ngũ tiền phong” của “đội quân đi trừ diệt” tham nhũng không có anh.

Nhân dịp lần giỗ thứ mười một của Phùng Quán, bài viết này thay nén hương báo tin mừng cho anh.

LÊ GIA NINH
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

NHÀ THƠ INRASARA KỲ QUẶC CHUYỆN


Ai hỏi Inrasara đều tuyên bố mình là người nông dân chính hiệu. Anh không hề giấu giếm mình đã bỏ học giữa chừng để về quê làm ruộng. Nhưng nếu hỏi nguyên do thì anh lại nói thẳng thừng, ở trường thấy chẳng có gì để học cả. Chán! Thế là về nhà tự học theo kiểu của mình. Cày ruộng kiếm tiền sinh sống và để lấy tiền mua sách. Anh làm thơ và dành không ít thời gian cho việc nghiên cứu, sưu tầm kiến thức về văn hoá Chăm, tại quê hương mình. Anh cứ mải mê cày ruộng và tự học quên ngày quên tháng.

Tên thật là Phú Trạm, sinh năm 1957. Ngay từ tuổi lên 10 anh đã mang tiếng là mọt sách, bỏ mọi cuộc vui với bạn bè, mụ mị với chuyện đâu đâu. Ai cũng gọi anh là Phú Trạm “mát” hay “khùng”. Anh học giỏi vào loại nhất trong làng, được học bổng hẳn hoi nhưng nghe chừng mỗi ngày lại thêm một “khùng” hơn.

Chuyện quái dị về sách vở học hành

Chuyện thứ nhất, năm 18 tuổi. Bất ngờ anh bỏ dở năm thứ nhất Khoa Anh văn, Trường Đại học Sư phạm, về quê với dự tính soạn bộ từ điển Việt - Chăm. Nhưng bắt đầu như thế nào không phải chuyện dễ dàng gì. Anh đã mượn được cuốn từ điển Chăm - Pháp, xuất bản năm 1906, để chép tay lại. Tất cả 532 trang. Việc này ai cũng cho là hoang đường vì cất công chép từng chữ cổ có hoạ là điên.

Vậy mà Inrasara đã “điên” như thế với ý chí làm được một việc gì đó có ý nghĩa cho dân tộc mình. Mà đấy chỉ là sự khởi đầu cho một công việc rất lớn trong sự nghiệp văn hoá sau này. Trong đầu chàng trai trẻ Sara còn bao dự tính còn ấp ủ khác. Nào là sách giáo khoa cho người Chăm hay bộ sách hàng ngàn trang về văn hoá và xã hội dân tộc Chăm…

Chuyện thứ hai vào năm 1978. Để có được bộ sưu tập về Kinh Phật rất hiếm hoi ngày đó, Sara đã dành dụm toàn bộ tiền cày thuê được trong nhiều năm để mua. Nghe tin bộ sách này chỉ có ở Huế, mọi người đều gàn anh, bởi thời điểm này phương tiện đi lại khó khăn. Tiền tàu xe ăn uống tốn kém lắm lấy đâu còn tiền để mua sách nữa. Nhưng Sara đã quyết chí đi bộ đến tận nơi.

Mặc ai chê mình kỳ quặc hay kêu lên đúng là Trạm “mát” thật rồi. Nhưng họ đâu biết, trong đầu anh chàng Chăm này nghĩ gì? Ngày đêm vất vả, lầm lũi như một con trâu cày trên cánh đồng làng vậy. Sara đến Huế trong sự háo hức khó tả khi trút toàn bộ tiền mang theo để mua hai bộ Kinh Bát Nhã (4 cuốn) và Kinh Hoa Nghiêm (8 cuốn), với giá tương đương hai chỉ rưỡi vàng ngày đó. Và rồi anh khệ nệ cõng sách trở về quê hương với niềm vui vô bờ.

Kỳ quặc hơn, cũng vào cái đận 1978, Sara đã xuống tóc đi tu ở một chùa tại Nha Trang đến cả tháng trời. Việc anh cạo trọc đầu ngược hẳn với đạo người Chăm. Vì từ xưa đến nay xứ Chăm chưa có ai làm như vậy. Nhưng Sara lại quan niệm bước vào con đường phật giáo với mục đích học hỏi thêm những điều về đạo làm người và sống hết lòng vì dân tộc quê hương mình. Anh kỳ công tìm mua bộ sách Kinh Phật cũng vì lẽ đó.

Ấy là chưa nói đến việc anh cặm cụi đi các làng xã người Chăm quanh vùng chỉ để nghe, ghi chép và viết lại mọi điều suy nghĩ về dân tộc, đã làm mọi người hết sức ngạc nhiên. Bởi lẽ có ai trả công cho anh đâu. Cái tiếng giỏi giang, chịu lao động cày thuê, cuốc mướn và yêu dân tộc Chăm như vậy nên được bà con làng xóm kính trọng và tin cậy. Họ đã bầu anh làm kế toán trưởng cho hợp tác xã hồi năm 1979 khi mới 22 tuổi.

Ngỡ ngàng tình duyên và buôn bán

Phía sau một Sara, nông dân thực thụ, còn là một Sara năng nổ thức thời về kinh doanh. Nhất là vào thời điểm lấy vợ, sinh con.

Chuyện lấy vợ của Sara cũng bị mọi người cho là kỳ quặc. Bởi lẽ giỏi giang và nổi tiếng khắp vùng như anh. Nhất là vào năm 1981, anh còn được trên tỉnh mời về biên soạn sách giáo khoa cho người Chăm thì không thể lấy một người phụ nữ lớn tuổi hơn và đã có hai mặt con, cho dù cô ta hát hay múa đẹp.

Anh không hề dao động với tình yêu chân thực của mình. Ngay cả vào thời điểm khó khăn. Sau bốn năm soạn sách giáo khoa, anh lại bỏ biên chế về làng cày ruộng như thường để sinh sống, nuôi vợ con và tiếp tục công việc nghiên cứu của mình. Nhưng rồi đến khi có con trai thứ hai vợ chồng anh phải nghĩ đến việc buôn bán. Đó là một cuộc mưu sinh cày cuốc trên cánh đồng thị trường đầy gian nan.

Đầu năm 1990, anh đã bán nhà lấy vốn đi buôn. Bà con trong làng đều cho anh là người dở hơi. Phải bán nhà là chuyện khó trở lại quê hương. Quả nhiên vợ chồng anh buôn thuốc lá từ Phước An lên bán ở Cam Ranh lỗ chỏng vó. Sau đó phải khăn gói lênh đênh sông nước về phương Nam bán thổ cẩm, buôn rau quả, lợn gà... Nhưng do không lường trước mọi chuyện và với tính cả nể, hay bán chịu cho bà con nghèo nên chỉ 9 tháng sau anh mất cả vốn lẫn lãi. Thế là sạt nghiệp.

Trở về quê ư? Nhà đã bán mất rồi. Con thơ nheo nhóc thế. Biết làm sao. Nhưng không thể không về. Đó là vào năm 1991. Gia đình anh đã phải thuê nhà để ở và kết hợp bán hàng ở ngay đầu làng. Quán cà phê Ha Ly ra đời. Ai ngờ trời có mắt. Hay tin Sara ăn nên làm ra, mọi người lại cho rằng, đó là chuyện kỳ quặc, vì ở chính ngôi nhà đó ai buôn bán cũng lỗ vốn và phải bán xới ra đi.

Vậy mà thật khó tin gia đình anh đã trụ vững, ngày một phương trưởng, nhiều phen lãi to. Nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao. Thì ra điều kỳ quặc này lại do chính Sara làm nên khi anh ôm cả đống sách về kinh doanh để đọc. Anh đã tóm tắt đề tài buôn bán của mình gọn đúng 100 trang để cho vợ con thực thi. Sara đã buôn trăm thứ bà giằn, từ cà phê giải khát đến bia rượu, sợi tơ, kể cả phân bón…

Phất đến mức anh còn thâu tóm được mọi mối bỏ sỉ, bán lẻ cả một vùng rộng lớn mấy làng lân cận. Mà cũng lạ, trong thời kỳ này anh còn bán chịu cho rất nhiều bà con trong làng nhưng không hề lo lắng chút nào. Sổ nợ của khách hàng trong tay anh tới hàng chục triệu mà vẫn ung dung làm ăn. Tiền lãi nhiều đến mức anh đã mua lại cả cửa hàng đang thuê. Gia đình anh lại có nhà từ đó.

Mọi việc làm ăn đang hưng thịnh đầy phấn chấn thì đến tháng 8-1992, anh được Trường Đại học Xã hội - Nhân văn TP HCM mời vào làm việc. Ai cũng khuyên và đều muốn anh ở lại với quê hương. Hơn nữa công việc thương trường đang lên như diều gặp gió. Bỏ đi phí hoài lắm.

Nhưng rồi Sara lại có một quyết định kỳ quặc, đem sổ nợ của bà con ra đốt hết, rồi kéo cả nhà vào TP HCM. Còn ngôi nhà Sara giao cho người cháu trông nom giúp và sau này trở thành ngôi nhà văn hoá Chăm của làng Mỹ Nghiệp, do anh gây dựng nên đến nay.

Lạ lùng trong văn chương

Phải nói, sự xuất hiện thơ của Inrasara là một hiện tượng bất ngờ cũng có phần kỳ quặc. Bởi lẽ nó như một tia chớp với một sắc màu chói chang trong cái nắng gió của miền cát trắng mênh mông như sa mạc. Thơ anh là sự bí ẩn của những điệu múa cổ Chàm đầy quyến rũ bên những toà tháp trầm mặc với thời gian.

Làm thơ từ tuổi niên thiếu mà chờ đợi tận 25 năm sau mới đưa in, quả là một bản lĩnh của một nghệ sĩ Chăm đến kỳ lạ. Nhà thơ Trúc Thông, người đem bài thơ đầu tiên có cái tên thật kỳ quặc “Nỗi buồn ứng trước” in cho Sara trên báo Văn nghệ, đã ngạc nhiên với một tứ thơ lạ lùng.

Ngay sau đó, nhà thơ Phạm Đức đã trở thành người đỡ đầu cho tập thơ đầu tiên của Sara: “Tháp nắng” (in ở NXB Thanh niên) cũng phải thốt lên, tác giả thơ kỳ quặc này sẽ đoạt giải và trở thành hiện tượng trong làng thơ Việt của năm 1997. Quả nhiên, đến tuổi 40 mới in tập thơ đầu tiên lại đoạt ngay giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và được đặc cách kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam. Inrasara đạt một kỷ lục khó ai vượt được sau này.

Chưa hết, liên tiếp vài năm sau, Inrasara còn đoạt cú đúp với hai giải thưởng cho tập thơ thứ hai: “Lễ tẩy trần tháng tư”; giải Hội Nhà văn Việt Nam - 2003 và giải thưởng Văn học Đông Nam Á - 2005. Anh là nhà thơ dân tộc thiểu số đầu tiên đoạt giải thưởng Văn học quốc tế này. Ấy là chưa kể thêm các giải thưởng khác và có thể nói nhà thơ Inrasara đã có một trữ lượng thơ rất dồi dào, được tích luỹ suốt 25 năm âm thầm chờ đợi một thời điểm có một không hai trong đời mình. Đồng thời thơ Inrasara còn được các nhà phê bình văn học coi như một hiện tượng văn học thể hiện khá rõ nét tinh thần hậu hiện đại của thế kỷ XXI.

Inrasara là một người thành thực và thẳng thắn với chính mình và bạn bè đồng nghiệp. Những bài tiểu luận hay phê bình của anh đều thể hiện tính cách đó. Anh có nhiều ý tưởng táo bạo mang tính khám phá, góp phần tìm ra một hướng đi cho thơ Việt Nam đương đại. Trong những cuộc hội thảo hay diễn đàn văn học, anh thường bộc trực thẳng thắn. Không ít người cho là anh kiêu ngạo.

Khi có người hỏi về chuyện này anh chỉ cười và nói rằng, không có thời gian để kiêu ngạo. Nghĩa là anh chỉ tập trung vào làm việc. Hiện trong tay anh có tới hàng ngàn trang sách đã in và còn tới chục ngàn trang sách đã viết xong và đang chờ xuất bản. Và nữa, khi phát biểu về mình qua tập thơ “Tháp nắng”, anh nói có nhiều chỗ non nếu in lại sẽ bỏ bớt đi.
Vậy đó, Insara một nhà thơ Chăm với đúng nghĩa, sáng tạo với cái khác lạ luôn luôn vẫy gọi và đáng yêu không hề kiêu ngạo chút nào

VƯƠNG TÂM
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Poet Hansy

RĂNG ĐEN
NÉT ĐẸP CỦA PHỤ NỮ XƯA


Nhuộm răng đen là một phong tục của người Việt xưa, những ai có hàm răng đen bóng đều được cho là đẹp, cho đến vài chục năm trước, tục lệ này vẫn còn khá phổ biến.
Tuy là một phong tục phổ biến của người Việt xưa, nhưng nhiều bộ phim cổ trang Việt rất ít khi để cho các nhân vật xuất hiện với hàm răng đen, trừ các nhân vật cụ bà.

Với quan điểm làm tác phẩm có bối cảnh lịch sử, thì dù nội dung có hư cấu đến đâu, bối cảnh văn hoá, sinh hoạt đều phải giống với lịch sử, nhóm tác giả Long thần tướng đưa nhiều đặc trưng văn hoá người Việt xưa vào. Bộ truyện có bối cảnh thời Trần, nên hầu hết nhân vật đều xăm mình, và nhuộm răng đen. Duy chỉ có nhân vật chính (Long) được vẽ với hàm răng trắng, và trong truyện hay bị mắng “Cái thằng răng trắng ởn như răng chó”. Nhóm tác giả lý giải họ chủ đích để Long có hàm răng trắng, như một cách tạo ấn tượng cho nhân vật chính.

Trong nhiều cuốn sách viết về văn hoá người Việt xưa đều nhắc tới hàm răng đen như một đặc trưng. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh, viết trong cuốn Việt Nam Văn hoá sử cương, tục nhuộm răng đen có từ cách đây hàng nghìn năm.

Sách dẫn lời Giáo sư Henri Maspéro, cho rằng tục nhuộm răng cũng như tục ăn trầu, dân ta có từ thời đại Văn Lang. “Nhưng hai phong tục ấy không phải phong tục đặc biệt của người Việt Nam, vì người Cao Man, người Ấn Độ, người Mã Lai ăn trầu còn nhiều hơn người Việt Nam, mà răng nhuộm thì ta thấy người Nhật Bản xưa cùng người Mã Lai và ít nhiều giống thổ dân ở Nam Dương quần đảo cũng có tục ấy”, sách Việt Nam Văn hoá sử cương viết.

Tuy nhiên, ở Việt Nam, nhuộm răng đen trở thành một phong tục phổ biến, kéo dài cho đến thế kỷ 20.

Nhiều người thường nghĩ rằng người Việt Nam xưa vì ăn trầu cho nên có răng đen. Thực ra tục ăn trầu và tục nhuộm răng không có quan hệ gì với nhau, tuy hai tục ấy đều khiến cho răng thành vững chắc.

Người Việt Nam bất cứ nam nữ, chừng 16, 17 tuổi đều nhuộm răng. Vì những chất dùng để nhuộm răng là những chất nồng và cay, nên môi và lưỡi đều sung, khiến người nhuộm răng phải nhịn cơm và đồ ăn cứng đến nửa tháng; chỉ ăn đồ lỏng (cháo) hoặc đồ không nhai mà dễ nuốt (bún) mà thôi. Trong thời kỳ nhuộm, để cho thuộc ăn chặt vào răng, nên cũng vì lẽ ấy mà phải kiêng nhai đồ cứng.


Răng đen là một trong những tiêu chí đánh giá vẻ đẹp người xưa. Trong ảnh là một người phụ nữ Việt chụp năm 1908. Ảnh: Pierre Dieulefils
Thông thường, ở nước ta xưa thì người nào để răng trắng là người bất chính, bị thiên hạ chê cười. Nhưng câu “Răng trắng như răng chó”, “Răng trắng như răng ngô” đều có hàm ý bỉ bạc. Răng đen là một yếu tố của nhan sắc đàn bà con gái.

Những câu ca dao cho thấy giá trị của răng đen như: “Lấy chồng cho đáng tấm chồng/ Bõ công trang điểm má hồng răng đen”, hay “Một thương tóc bỏ đuôi gà/ Hai thương ăn nói mặn mà có duyên/ Ba thương má lúm đồng tiền/ Bốn thương răng nhánh hột huyền kém thua”.

Dẫu người đẹp thế nào mà răng không đen nhành thì nhan sắc cũng giảm. Bởi vậy, người Việt Nam xưa, nhất là đàn bà con gái, nhuộm răng rồi còn phải dùng những thuốc gọi là thuốc xỉa để giữ cho răng được luôn luôn đen bóng.

Trong bài hịch của vua Quang Trung khi kéo quân ra Bắc đánh giặc nhà Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng vì đây là một tập tục quan trọng trong văn hoá người Việt: “Đánh cho để dài tóc/ Đánh cho để đen răng/ Đánh cho nó chích luân bất phản/ Đánh cho nó phiến giáp bất hoà”.

Cho đến năm 1948, khi Hoàng Cầm viết bài thơ Bên kia sông Đuống, tục nhuộm răng đen vẫn còn. Bài thơ có hai câu miêu tả người phụ nữ: “Những cô hàng xén răng đen/ Cười như mùa thu toả nắng”.

Trên thực tế, từ đầu thế kỷ XX, ở các thành thị lớn của Việt Nam, tục ăn trầu và nhuộm răng đã suy yếu nhiều. Thanh niên nam nữ phần nhiều không ăn trầu, để răng trắng. Phong tục nhuộm răng đen ít đi, dần dần biến mất.

TẦN TẦN
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 53 trang (523 bài viết)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [33] [34] [35] [36] [37] [38] [39] ... ›Trang sau »Trang cuối