NGUYỄN KHUYẾN-[1]
Nguyễn Khuyến (1835-1909) có tên là Nguyễn Thắng, quê ở làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông học giỏi, năm Tự Đức 17 (1864), đậu đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Cả ba lần đều đậu thủ khoa nên người đời thường gọi là Tam Nguyên Yên Đổ . Đỗ xong , ông được bổ làm Hàn lâm trực học sĩ,về sau thăng đến Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc.Sau ông cáo quan về nhà, không chịu hợp tác với Pháp, thường làm thơ có tính chất ưu thời mẫn thế và đả kích vào một số nhân vật lúc bấy giờ. Ông là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên. Ông có tiếng hay đùa bỡn và trào phúng . Mỗi khi đưa bản thảo ra , người đương thời tranh nhau truyền tụng, sao chép được đều lấy làm thú vị. Dưới đây là một số giai thoại.
1/
Cua chơi trăng
Tương truyền khi Yên Đổ còn ít tuổi, mắt ông đã kèm nhèm, vậy mà lại ngấp
nghé con gái một ông cử ở làng bên. Cô này đem chuyện mách cha,ông cử liền cho mời ông đến,buộc phải làm bài thơ, lấy đầu đề là “Cua chơi trăng”, lấy chữ “trăng” làm vần.
Thấy cái đầu đề có vẻ dè bỉu, ông tuy bực mình, song cũng ngâm ngay 8 câu:
Vằng vặc đêm thu ánh xế chừng,
Ham thanh, cua mới muốn chơi trăng.
Nghiêng mai lách ngược qua dòng biếc,
Ghé yếm bò ngang nhởn bóng hằng.
Cung quế chờn vờn hương mới bén,
Vườn đào thoang thoảng gió như nâng.
Một mai cá nước cua vui phận,
Trăng muốn tìm cua, dễ được chăng?
Ông cử thấy lời thơ hoạt bát và ý thơ khẳng khái: “ngày nay khinh cua, nhưng rồi cua gặp hội may (thi đỗ) , bấy giờ trăng muốn tìm cua chưa chắc đã được”, nên sinh lòng mến phục, đổi thái độ, tiếp đãi ân cần.
2/
Thơ bồ tiên
Một viên quan to, có con trai được bổ tri huyện Thanh Liêm (gần huyện của Yên Đổ), tỉnh Hà Nam. Anh này do nhờ vào quyền thế của bố , lại khéo chạy chọt với Tây nên được bổ chân tri huyện ấy.Khi nhậm chức,bề ngoài anh ta tỏ vẻ một viên quan thanh liêm , hiền hậu ; nhưng kỳ thực là một tay ăn tiền kín đáo, khôn hơn nữa là một tên mật thám cho Pháp để đàn áp nhân dân . Nhưng anh ta lại hay bày trò thi thơ , để mượn dịp lừa bịp nhân dân về uy đức của mình. Một lần anh ta tổ chức kỳ thi thơ hàng huyện, ra đề thi là “Bồ tiên thi” (thơ roi cỏ bồ), lấy chữ “bồ” làm vần. Đề thi có ý nói về ông quan thương dân, trong khi răn bảo dân chỉ dùng roi bằng cỏ bồ , vì roi cỏ bồ mềm mại , đánh không đau.
Câu chuyện đồn đến tai Yên Đổ, ông thấy chướng tai gai mắt, bèn gửi tới cho hắn một bài thơ như sau:
Chú huyện Thanh Liêm khéo vẽ trò,
Bồ tiên mà lại lấy vần bồ.
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
Ngọng nghẹo văn chương giở giọng Ngô!
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp, (1)
Tiên là ý chú muốn nhiều xu. (2)
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc, (3)
Không khéo mà roi nó phết cho. (4)
(1) Bồ bật cạp: cũng như bồ sứt cạp,là một thành ngữ chỉ cái bồ đựng đầy quà nên cạp bật ra. Đây ý nói dân chửi cho đầy bồ.
(2) Chữ tiên: là roi cũng đồng âm với chữ tiên là xu. Tác giả dụng ý chơi chữ để chửi tri huyện tham tiền.
(3) Theo một điển cũ, một viên quan muốn làm ra vẻ thanh liêm, hễ dân biếu
vàng trước công đường thì không lấy nhưng biếu tiền bạc ở nhà riêng thì
vẫn lấy như thường.
(4) Câu kết nhắc đến “roi” là để gói gắm cái đầu đề đã ra.
3/
Đòi xem câu đối
Tục xưa, hằng năm cứ đến rằm tháng chạp thì các thầy đồ đã bắt đầu cho học trò nghỉ Tết Nguyên Đán.Còn trong dân gian thì ngày 23 tháng chạp thường ăn Tết ông Táo rất to; và nhiều nơi Tết Nguyên Đán hầu như cũng bắt đầu luôn từ đấy.
Nghe đâu vào năm Nguyễn Khuyến đang làm gia sư cho Hoàng Cao Khải, tới ngày rằm tháng chạp năm ấy, ông cũng xin nghỉ để về quê nhà ăn Tết.
Sau khi Nguyễn Khuyến về quê, Hoàng Cao Khải nhân có việc quan phải qua Hà Nam, bèn nhắn cho Nguyễn Khuyến biết là sẽ ghé thăm ông.
Hôm đó đúng 23 tháng chạp, Tết ông Táo, Nguyễn Khuyến mới nhân dịp tìm cách xỏ họ Hoàng một vố chơi.
Ông sai người trồng một cây nêu khá cao, trên treo một chiếc đèn lồng và một vế đối như sau:
Kiết kiết can mao, tiết đáo, kình thiên phù nhật nguyệt.
Nghĩa là: Chót vót cờ mao, đến Tết, chống trời phò nhật nguyệt.
Câu này nghĩa đen nói về cây nêu cao có treo đèn, nhưng nghĩa bóng là tỏ chí khí của nhà thơ. Vế đối lơ lửng này cốt để nhử họ Hoàng vào tròng.
Quả nhiên khi Hoàng Cao Khải tới, hắn đọc vế đối ở cây nêu thì tấm tắc khen hay, nhưng thấy chỉ có một vế thì thắc mắc lắm, cứ năn nỉ đòi Nguyễn Khuyến viết nốt vế thứ hai.
Chỉ đợi có thế Nguyễn Khuyến bèn dẫn họ Hoàng vào trong bếp nhà mình. Ở đó, cạnh mấy cỗ đầu rau mới nặn, viên kinh lược sứ Bắc Kỳ đọc thấy vế đối lại như sau:
Mang mang khối thổ, thời lai, tảo địa tác quân vương.
Nghĩa là: mênh mông khối đất, gặp thời quét rác cũng làm vua.
Câu này nghĩa đen chỉ là nói mấy ông đầu rau (ông táo) nặn bằng đất.Nhưng ý tứ sâu xa là bảo họ Hoàng chỉ là đồ nặn bằng đất thịt, chỉ do gặp thời mà lên đó thôi (Trỏ vào việc Hoàng Cao Khải làm Kinh lược Bắc Kỳ)
Hoàng Cao Khải vì muốn xem vế đối mà phải chui vào bếp, hắn đã bực. Lúc ngẫm vế đối có ý xỏ xiên như thế thì càng cay hơn; nhưng hắn cũng đành cười nhạt cho qua chuyện vì biết mình dại , đã trót năn nỉ đòi xem chứ nào Nguyễn Khuyến có muốn cho xem đâu.
4/
Gặp chó
Có một lần, viên tổng đốc Nam Định là Vũ Văn Báo viết thư mời Nguyễn Khuyến đến chơi (việc này là làm theo lệnh viên công sứ nhằm mua chuộc lôi kéo Nguyễn Khuyến ra làm quan lại để thu phục lòng người lúc bấy giờ).
Nguyễn Khuyến nhận lời và cho cả người con trai là Nguyễn Hoan cùng đi. Khi hai cha con đến cổng dinh tổng đốc thì gặp viên công sứ Nam Định đi ra, vào khỏi cổng thì có con chó tây nhảy xổ tới cắn. Nguyễn Khuyến hốt hoảng vội đẩy con trai lên cản chó.
Lúc vào nhà, sau câu chuyện phiếm, Vũ Văn Báo nói đến việc chính phủ bảo hộ muốn mời Nguyễn Khuyến ra làm đốc học thành Nam, Nguyễn Khuyến không trả lời, chỉ rung đùi đọc đùa một câu tức cảnh rằng:
Hốt đáo nhĩ môn phùng nhĩ cẩu,
Cấp tương ngô tử thế ngô thân.
Tạm dịch:
Đến cổng nhà ngươi thời gặp chó
Kịp đem con trẻ thế thân già.
Vũ Văn Báo hiểu ý mỉa mai chua cay của nhà thơ, cũng giận, song chỉ cười nhạt không dám nói ra . Vì Báo đối với Nguyễn Khuyến vừa là bạn lại vừa là chỗ thông gia.
Hôm sau về nhà, Nguyễn Khuyến làm một bài thơ thác lời gái goá để gửi cho Báo. Bài thơ như sau:
Chàng chẳng biết gái này gái goá,
Buồn nằm suông quên cả áo cơm.
Khéo thay cái mụ tá ơm, (1)
Đem chàng tuổi trẻ ép làm lứa đôi.
Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc.
Gái già này sức vóc được bao?
Muốn sao, chiều chẳng được sao.
Trước tuy sum họp sau nào được lâu?
Lấy chồng vốn nhớ câu ăn mặc.
Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi.
Vốn xưa cha mẹ dặn lời,
Tư bôn (2) lại phải kẻ cười người chê.
Mụ hỡi mụ, thương chi thương thế?
Thương thì hay nhưng kế chẳng hay.
Thương thì gạo vải cho vay,
Lấy chồng thì gái già này xin van!
(1) Tá ơm: là mụ mối, chỉ vì Vũ Văn Báo mối lái cho Nguyễn Khuyến ra làm
quan với Pháp.
(2) Tư bôn: trốn theo trai, ý nói bỏ dân bỏ nước đi theo tây
Báo xem xong,không những hiểu ngay rằng Nguyễn Khuyến vin cớ tuổi già để từ chối việc ra làm quan với Pháp , mà cũng biết chán cụ Tam Nguyên còn chửi y rất đau nữa là khác, nhưng vì lời thơ khôn khéo kín đáo quá, không thể moi móc chỗ nào được nên đành nuốt giận làm lành , xuê xoa cho qua chuyện và từ đấy không dám lôi kéo dụ dỗ gì nữa.
Bài thơ này bằng chữ Hán (có đầu đề là Ly phụ hành), chính ông dịch ra quốc âm. Cũng có sách nói ông làm bài thơ này để tỏ tâm sự đối với kinh lược Bắc Kỳ là Hoàng Cao Khải
5/
Vịnh phỗng đá
Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn, viên kinh lược Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải cho mời ông đến làm gia sư (thầy dạy học trong nhà), để có dịp giám sát chặt chẽ hơn. Ông từ chối không được, sau cùng phải nhận một cách miễn cưỡng.
Một hôm, viên kinh lược mở tiệc khao mừng long trọng, gia sư nguyên là một vị tam nguyên nên cũng được mời dự.Tân khách toàn là quan lại Bắc Kỳ, đai vàng áo tía rực rỡ . Còn ông đồ Khuyến lúc ấy thì chỉ áo vải khăn thâm. Trong tiệc ông ngồi yên chẳng nói chẳng rằng . Bọn quan lại thấy vậy có ý khinh miệt, chỉ trỏ bàn tán với nhau, bảo Nguyễn Khuyến là ông phỗng đá; ý muốn nói sự có mặt của ông ở đây cũng bằng thừa mà thôi!
Nguyễn Khuyễn nghe được bực lắm. Nhân lúc viên kinh lược bảo ông làm bài ca trù cho cô đào hát ông liền lấy ngay “Phỗng đá” làm đề và làm một bài như sau:
Người đâu tên họ là gì?
Khéo thay chích chích chi chi nực cười. (1)
Giang tay ngoảnh mặt lên trời.
Hay còn lo tính sự đời chi đây?
Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi,
Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
Hay tưởng trong cây cỏ nước non này
Chí cũng rắp giang tay vào hội lạc (2)?
Thanh sơn tụ tiếu đầu tương hạc,
Thương hải thuỳ tri ngã diệc âu. (3)
Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu,
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác. (4)
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác, (5)
Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác.
Cuộc tỉnh say say tỉnh một vài câu.
Nên chăng đá cũng gật đầu!
(1) Chích chích chi chi: cũng chỉ ù ù, cạc cạc, không biết gì việc đời.
(2) Hội lạc: tên một hội vui chơi của một số nhà thơ đời Tống.
(3) Hai câu thơ Hán nghĩa là: Ta cười ta đầu đã bạc (như đầu con hạc) mà vẫn
thích thú cuộc đời . Nhưng ai biết đâu ta lại giống con chim âu nhàn nhã ,
không muốn nghe chuyện đời lật lọng.
(4) Túi vũ trụ: bầu trời đất, cuộc đời, việc đời.
(5) Duyên hội ngộ: duyên gặp gỡ sum họp.
Bài ca trù làm xong, viên kinh lược giục cô đào hát ngay lên để thưởng thức. Lúc ấy có Phan Văn Ái làm chức quan nhỏ trong nha kinh lược cũng ngồi dự tiệc, nghe thấy cái tâm sự u uất và cái độ lượng “không chấp chuyện đâu đâu” của nhà thơ như thế, Ái rất xúc cảm.
Vốn chẳng ưa gì bọn quan trên, lại bất bình với thái độ khinh mạn của chúng đối với Nguyễn Khuyến , Ái cũng mượn dịp hoạ lại luôn một bài ca trù theo đầu đề “Phỗng đá” như sau:
Non thiêng khéo đúc nên người,
Trông chừng sành sỏi khác loài trần gian.
Trải bao gió núi mưa ngàn,
Đã già già sóc, lại gan gan lỳ.
Gan lỳ già sóc
Há non chi mà sợ cóc chi ai,
Người là người, tớ cũng là người.
Ngẫm cho kỹ vẫn chênh vênh đầu giốc,
Tương chi tằng thức năng công ngọc.
Mặc luyện như hà khả bổ thiên. (1)
Thôi mặc ai rằng trắng rằng đen,
Thế như thế, hẵng ngồi yên như thế vậy.
Còn trời đất hãy còn tai mắt ấy,
Lặng mà coi hoạ thấy lúc nào chăng ?
Hãy về giã gạo ba giăng.
(1) Hai câu thơ chữ Hán lấy tích Nữ Oa luyện đá vá trời, có nghĩa là: Người
biết mình có khả năng giũa được ngọc, Không luyện thì làm sao vá được
trời
Nghe đâu lúc bài của Phan Văn Ái được cô đào hát lên, bọn quan trên nghe thấy giọng thơ đầy khí phách ngang tàng,đều có ý không thích. Nhưng không tìm thấy chỗ nào hớ hênh trong bài để mà bắt bẻ, nên chúng cũng đành chịu.
6/
Thơ ông phỗng sành:
Tương truyền khi Nguyễn Khuyến làm gia sư cho viên kinh lược Bắc Kỳ, ông không mấy khi có nét mặt vui vẻ. Hàng ngày sau buổi dạy học, ông hay lững thững đi dạo một mình trong khu vườn vắng của nhà chủ. Tại đó,có cây, có đá, có đủ hoa cỏ bốn mùa, nhất là có ông phỗng sành đứng dưới gốc si,hai mắt đăm đăm dòm xuống bể nước như chứa chất một tâm sự gì , khiến cho Nguyễn Khuyến rất thích.
Một lần ông đang tần ngần đứng ngắm phỗng sành, bất chợt viên kinh lược đi tới bắt gặp. Thấy vậy, hắn bảo Nguyễn Khuyến thử vịnh một bài “Thơ phỗng sành”. Nguyễn Khuyến đang hứng, chẳng thèm nghĩ, vịnh luôn rằng:
Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?
Bài thơ làm xong, viên kinh lược phải chịu là hay; nhưng hắn không chịu nổi cái giọng mai mỉa sâu cay của vị gia sư. Thế rồi mấy ngày sau, hắn đành phải chiều theo ý Nguyễn Khuyến để cho ông trở về và nhận con ông là Nguyễn Hoan đến dạy học thay.
7/
Thơ thăm bạn mất cướp
Nguyễn Khuyến có ông bạn là tuần phủ họ Bùi, ông tuần này tính tình hống hách mà hay đục khoét. Lúc về hưu ở làng, ông ta tuy không có dịp đục khoét nữa, nhưng vẫn cố ky cóp làm giàu bằng đủ mọi cách bóc lột bẩn thỉu. Vì thế, dân trong vùng rất ghét ông ta. Tình cờ một đêm,một bọn kẻ cướp bôi nhọ mặt, vào nhà tóm ông ta khảo của, lấy hết tiền nong vàng bạc. Rồi sau chúng lại lôi ông ta ra tận giữa cánh đồng làng và trói gô để ở đó.
Sáng hôm sau dân chúng rõ chuyện, lấy làm hả hê lắm. Rồi chẳng mấy chốc, chuyện bay đi khắp vùng. Nguyễn Khuyến nghe được, vốn đã ghét cái thói vơ vét của ông quan họ Bùi, cho thế cũng là đáng đời, mới làm giễu bài thơ rằng:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông,
Nó lại lôi ông đến giữa đồng.
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ!
Xương già da cóc, có đau không?
Bây giờ trót đã sầy da trán,
Ngày trước đi đâu mất mảy lông?
Thôi cũng đừng nên ky cóp nữa,
Kẻo mang tiếng dại với phường ngông!
Họ Bùi mất cướp, của cải hết sạch, mình mẩy đau nhừ, đang bực , khi nhận được bài thơ hỏi thăm của bạn, tưởng là an ủi gì, hoá ra lại nói xỏ thì càng tức hơn, mới trả miếng Nguyễn Khuyến bằng một bài thơ như sau:
Ông thăm tôi cũng giã ơn ông,
Nó có lôi tôi đến giữa đồng,
Cũng tưởng vun thu phòng lúc thiếu,
Nào ngờ ky cóp lại như không.
Chém cha lũ quỷ đen tai mắt,
Chẳng nể ông già bạc tóc lông.
Ông hỏi thăm tôi, tôi biết vậy,
Thương ông tuổi tác chán thời ngông!
Nguyễn Khuyến đọc bài thơ, biết họ Bùi cũng có ý muốn xỏ lại mình; nhưng thấy giọng xỏ non nớt quá nên chỉ cười thầm.