273 Ai ngờ tiếng dế dan ri rỉ Giọng bi thu gọi kẻ cô phòng Vắng tanh nào thấy vân mòng Hơi thê lương lạnh ngắt song phu huỳnh
273.Mais ce ne sont que les gémissements des grillons Qui leurrent de sa voix triste d’automne la solitaire Dans l’isolement, je n’ai aucune nouvelle du Roi Seul le souffle froid de la fenêtre aux lucioles
273.Но это только стрекотания кузнечиков Которые зовут уединнёную грусным тоном Беслюдно! Никакого известия нет! Дует унылый воздух cо двери где мигают свеляки
277.Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc Nghe vang lừng tiếng giục bên tai Đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi Nghiêng bình phấn mốc mà nhồi má gieo
277.Quand les rayons lunaires s’inchinent sur le toit Il me semble d’entendre des voix si pressantes Des servantes qui m’appellent à vite voir le Roi Je vide mon pot de fard ranci ravivant mes joues ridées
277. Когда луна наклоняется на крыше Слышала как наименования на уши Думую, что служанки, которые вызывают Вынимаю кувшин пудр, чтоб оживлять шёки
281.Ai ngờ tiếng quyên kêu ra rả Điệu thương xuân khóc ả sương khuê Lạnh lung nào thấy ỏ ê Khi bi thương sực nức hè lạc hoa
281.Mais ce ne sont que des cris prolongés des marouettes Avec l’air de regret du printemps qui pleure la veuve Dans ce froid comment pourrai-je trouver qui me console Seul un triste parfum des fleurs tombées sur la véranda
281.Но это только без умолку крики пастушки Жалея весны, плачут молодую вдову Никто не придёт утешать меня в стуже Только грустно пахнут осыпанные цветы
285.Tiếng thuý điện cười già ra gắt Mùi quyền môn thắm rắt nên phai Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi Thì thong thả vậy cũng thôi một đời
285.Les rires à l’excès des palais deviennent agaçants L’éclat vivement pompeux de puissance est décoloré Si j’avais su que le milieu influent se ternira Je n’aurais pas à me presser, j’aurai vécu ma simple vie
285.На оделочном дворце много смехов надоели всем Блеск власти слишком яркий уж стал ославлять Если думала бы, что слава эта тускнет То не торопилась бы кончить мои дни
289.Vì sớm biết lòng giời đeo đẳng Dẫu thuê tiền cũng chẳng buồn tênh Nghĩ mình lạ ngán cho mình Cái hoa đã chót gieo cành, biết sao
289.Si j’avais su d’avance que le Ciel me poursuit Je n’aurais à aucun prix accepté cette vie Plus je pense à mon sort, plus j’en suis dégoûtée Fleur détachée de la branche, que pourrait-elle agir?
289.Если заранее знала б, что Бог меня следил Не приняла б эту жизнь, хотя много мне платили Думуя о себе, сама очароваюсь Что можно делать цветом, раз он уже упал
321.Tình rầu rĩ làm khuây nhĩ mục Chốn phòng không như giục mây mưa Giấc chiêm bao những đêm xưa Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày
321.Dissipant les pensées lugubres, j’ouvre yeux et oreilles Dans la chambre désete se rallument les désirs d’amour Les rêveries des nuits d’autrefois se réveillent Telles pluies après sécheresse, j’envie de vous voir
321.Рассея скорбные мысли, открою глаза и уха Пустая комната как вызвала плотские желания Вспоминаясь о сновидениях протёкших лет Жажду их как капели дожди после долгой засухи
325.Trên chín bệ có hay chăng nhẽ Khách quần thoa mà để lạnh lùng Thù nhau ru, hỡi đông phong Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào
325.Sur le Trône Auguste, connaissez-vous ma peine? Laisser une femme dans telle solitude Est-ce vrai que tu me hais, Ô, Vent d’Orient? Une fleur de pêcher au parc ensoleillé, tu retiens
325.На Престоле знали Вы моё огорчение Отставили в холоде такую красавицу Ненавидите ли меня? Ах, Восточный Bетер! На сонечном уголке сада удержал свежий цветок
329.Tay tạo hoá cớ sao mà độc Buộc người vào kim ốc mà chơi Chống tay ngồi ngắm sự đời Muốn kêu một tiếng cho dài, khỏi căm
329.Pourquoi la main du Créateur est si cruelle? Pour s’amuser à m’attacher dans le Palais d’Or Assise, appuyée sur les bras, méditant aux chose du monde J’envie de pousser un long cri pour exprimer ma haine!
329.Творец! Почему Вы такой слишком коварный? Меня привязали в Золотом Дворце как щутка Сидя, опираюсь на руку, думую о жизни Хочела громко кричать, чтобы снять cвой гнев
333.Nơi lạnh lẽo, nơi xem gần gặn Há phai son lạt phấn ru mà Trêu ngươi chi mấy, trăng già Sao con chỉ thắm mà ra tơ mành?
333.Ici, solitude, là-bas, à côté du Roi Est-ce vrai-mon rouge et mon fard sont tout délavés? Encore t’amuses-tu à me taquiner, Vieillard de la Lune? Pourquoi mon fil rouge l’as tu fait si ténu?
333.Здесь холодная глушь, там полно ласками Возможно ли, я полностью поблекнула? Зачем меня раздражили ли так, Старая Луна? Пурпуровая нить превратилась в тонкое волокно!
337.Mon cœur blasé, ma tristesse répand sur toutes choses Mes entrailles s’embrouillent comme les fils de soie Sur la lampe éclairant l’ancienne chambre nuptiale Les fleurs jumelles gardent encore leur fraîcheur
337.С угнечённым состоянием я грустила по всем Душа моя растрепалась как волокна Спаренная лампа в бывшой cвадебной комнате Как и раньше без никаких измененний осталась
341.Mà lượng thánh đa đoan kíp mấy Bỗng ra lòng run rẩy vì đâu Bõ già tỏ nỗi xưa sau Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng
341.Mais les sentiments du Roi ont changé en peu de temps Soudain, pour quelle raison, il m’a mal considérée Mon vieux serviteur! Vous avez l’informé de toutres choses Pourquoi n’avez vous rien dit à Sa Majesté?
341.Но чувство Короля очень быстро поменяло Вдруг нет причины он меня покинул Ах, Покорный слуга! вы меня прекрасно знаете Почему вы об этом нечего ему не сказали
345.Đêm phong vũ lạnh lùng có một Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh Vách sương nghi ngút, đèn xanh lờ mờ
345….Dans la nuit orageuse je suis seule au monde transie Les gouttes sur le bananier en rythmes tintent les veilles Rasant les murs scintille la lueur des lucioles Sur la cloison brumeuse ondule le clair de la lampe imprécise
345.В этой грозовой ночи чуствую одинокой На листьах отмечают кануны капли дождя Вдоль и поперёк стены мелкают облески светлячок На перегородках струятся мглы, тускнеет лампа
349.Mắt chưa nhắp, đồng hồ đã cạn Cảnh tiêu điều ngao ngán nhường bao Buồn này mới gọi buồn sao Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình!
349.À peine fermés les yeux, l’horloge à eau est tarie L’alentour est morne, le spectacle est navrant Quelle nom pourrait-on appeler cette mélancolie Toute la nuit, je me souviens de ma situation pleine d’émotions
(KẾT LUẬN)
353.Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi Những gương sầu phận tủi bao xong Phòng khi động đến cửu trùng Giữ sao cho được má hồng như xưa!
(CONCLUSION)
353.L’ombre du poulain blanc file devant mes stores Pourrais-je un jour finir avec mes tristesses et tracas Pour qu’au cas, où Sa Majesté se rappelle J’aie encore conservé mes joues roses d’antan
(ЗАКЛЮЧЕНИЕ)
353.Мелькнули перед шторой мои прекрасные дни Как могла кочиться с грусью и горем пред зеркалом! На случае размягчения сердца Короля Могла бы сохранить ранние розовые щёки
1.Thấy rét u tôi bọc lại mền, Cô hàng cất rượu ủ thêm men, Mẹ cha mất sớm còn em nhỏ, Say cả tư mùa cho khách quen .
5.Em nhỏ là Nhi, bạn nhỏ tôi, Suốt ngày hai đứa nhẩn nha chơi . Chị Nhi bán rượu đôi chiều chợ, Vẫn nhớ mua quà cho cả đôi .
9.Hai đứa thường nhân buổi vắng nhà, Người ta bắt chước chị người ta! Ra vườn nhặt những hoa cam rụng, Về bỏ đầy nồi cất nước hoa .
13.Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy, Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau . Hí hửng bảo nhau: "Thơm đấy chứ, Nước hoa ngoài tỉnh thấm vào đâu!"
17.Một tối nhà Nhi có giỗ thầy, Chị Nhi cho uống rượu cay cay, Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say .
21.Hai đứa ôm nhau đánh giấc dài, Bất đồ ngủ đến sáng ngày mai . Chị Nhi cứ chế làm sao ấy, Hai đứa nhìn nhau ngớ ngẩn cười .
25.Chị Nhi thường nói với u tôi: "Hai đứa, thưa bà, đến đẹp đôi!" U tôi cười đáp ngay như thật: "Tôi có nàng dâu giúp đỡ rồi!"
29.Thưở ấy non sông thật thái bình, Trai hiền bạn với gái đồng trinh . Đời say men rượu thơm hoa rụng, Tràn những thơ ngây, ngập cảm tình .
33.Ấy thế mà rồi cách biệt nhau, Nhà Nhi không biết dọn đi đâu . Mình tôi trời bắt làm thi sĩ, Mẹ mất khi chưa kịp bạc đầu .
37.Bỏ lại vườn cam, bỏ mái tranh, Tôi đi dan díu với kinh thành . Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới, Chuốc mãi men say rượu ái tình .
41.Rượu ái tình kia thành thuốc độc, Vườn trần theo bướm phấn hương bay . Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc, Hoa hết thơm rồi rượu hết say .
45.Trăm sầu nghìn tủi mình tôi chịu, Ba bốn năm rồi năm sáu năm . Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại, Men nồng gạo nếp nước hoa cam .
49.Xa lắm rồi Nhi! Muộn lắm rồi, Bẽ bàng lắm lắm nữa Nhi ơi! Từ ngày Nhi bỏ nơi làng cũ, Mộng ngát duyên lành cũng bỏ tôi .
53.Chắc ở nơi nào dưới mái tranh, Chị em Nhi vẫn sống yên lành . Chị Nhi cất rượu cho Nhi bán, Hồn vẫn trong và mộng vẫn trinh .
57.Ngày xưa con bé Nhi còn đẹp , Huống nữa giờ Nhi đã đến thì . Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ, Cho người thiên hạ phải say Nhi .
61.Xóm chị em Nhi ở mấy nhà ? Bến đò đông vắng ? Chợ gần xa ? Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ ? Vườn có trồng cam có nở hoa ?
65.Mơ tưởng vu vơ lòng dối lòng, Thực ra có phải thế này không . Chị Nhi đã lấy chồng năm trước, Nhi đến năm sau lại lấy chồng ?
69.Ước gì trên bước đường lưu lạc, Một buổi chiều nào lộng gió mưa, Gõ cửa nhà ai xin ngủ trọ , Giật mình tôi thấy tiếng Nhi thưa .
73.Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó, Nhi rót đưa tôi nước rượu đầu . Nhắc lại ngày xưa mà thẹn lại , Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau .
77.Tôi kể: "U tôi đã mất rồi, Cửa nhà còn có một mình tôi ..." Nhi rằng: "Ngày trước u thường nói Hai đứa mình trông đến đẹp đôi ..."
81."Chị em mới lấy chồng năm trước, Chồng chị trồng cam ở mé sông . Em ở mình đây nhà trống trải, Trăng vàng đầy ngõ gió mênh mông ..."
85.Như truyện Tương Như và Trác Thị Đưa nhau về ở đất Lâm Cùng ** Vườn xuân trắng xoá hoa cam rụng . Tôi với em Nhi kết vợ chồng .
89.Rượu cất kỳ ngon men ủ khéo, Say người thiên hạ lại say nhau . Chiều chiều hai đứa sang thăm chị , Chồng hái hoa cho vợ giắt đầu .
93.Chao ôi! Là mộng hay là thực ? Là thực hay là mộng bấy lâu ? Hai đứa sống bằng hoa với rượu, Sống vào trời đất, sống cho nhau .
97.Nhưng mộng mà thôi, mộng mất thôi, Hoa thừa rượu ế, ấy tình tôi . Xa rồi vườn cũ hoa cam rụng , Gặp lại nhau chi muộn lắm rồi .
Huế 1941
FLEURS ET ALCOOL NGUYỄN BÍNH 1.Il fait froid, ma mère recouvre la couverture ouatée La vendeuse de l’alcool couve en plus des ferments Sa sœur est trop petite, leurs parents sont décédés hâtivement Elle enivre toute l’année les clients habitués
5.Sa petite sœur, ma chère, se nomme Nhi Nous nous égarons en nous amusant toute la journée Sa grande sœur vend de l’alcool quelques jours de marché Et toujours achète pour tous deux les gourmandises
9.Nous deux profitant l’absence de sa sœur L’imitons : Ramasser les fleurs tombées de l’oranger Et les placer dans la marmite pour du parfum distiller
13.Bien que le parfum exhale ne pas plus Tant pis! Nous deux le bâclons sur nos cheveux Nous nous réjouissons d’avance : Il exhale bien! Le parfum à la ville ne peut le comparer!
17.Uue soirée, chez Nhi on commémore le décès de son père Sa sœur nous sollicite pour boire de l’alcool un peu piquant Il parait que la petite tasse nous rend éméchés Et nos deux figures devienent rougissantes
21.Nous nous ceinturons et dormons d’un bon sommeil Ầ l’improviste nous pionçons jusqu’au matin Sa sœur se gausse de nous affectueusement Nous nous regardons en souriant hébétement
25.Sa sœur souvent plaisante avec ma mère “Ils formeront un couple bien assorti!” Et ma mère lui répond immédiatement “J’aurai une brue pour m’aider aussitôt”
29.À cette époque notre pays était paisible Le bon garçon se lie d’amitié avec la fille vierge Le monde s’enivre d’alcool, s’exhalent les fleurs tombées Partout plein de sympathie et de naiveté
33.Dès lors, nous nous sommes séparés On ne sait où leur domicile s’est transféré Et moi, Le Ciel m’oblige de devenir poète Ma mère décéda n’ayant pas le temps à vieillir
37.Quittant l’orangerie et notre paillote Je me lie profondément d’amour avec la capitale Rêvant toujours aux fleurs fragrantes du séjour des fées Et m’invitant autrui à boire de l’alcool de passion
41.Mais cet alcool d’amour ait devnu toxique Le jardin du bas monde suit les papillons, pollen et senteur s’évaporent Ma vie devienne désert, vrai désert Les fleurs perdent leur fragrance, les papillons Cessent de voltiger et l’alcool ne m’enivre plus!
45.Tristesse et humiliation je souffre moi même Trois, quatre, puis cinq, six ans s’écoulaient Je pleure en cachette chaque fois que je me remémore À l’alcool ardent, au riz gluant et à l’eau de la fleur d’orange
49.C’est déjà trop loin et trop tard, ma chère Et très, très honteux aussi, chère Nhi Depuis quand tu quitta notre village ancient Le beau rêve et la bonne chance me quittèrent aussi
53.Peut être à un endroit quelconque, sous la paillote Ta sœur et toi mènent une vie paisible Ta sœur distille de l’alcool pour tu le vends Ton âme reste pure et ton rêve-vierge
57.Aurefois, encor fillette, tu étais charmante D’autant plus, tu es déjà pubère maintenant Chaque mois quelques séances de marché Tu incite tant de gens à éprendre de toi
61.Le hameau où vous logez a combien de foyers? L’ambarcadère est-il peuplé? Le marché est loin ou près? Le logis que vous louez a-t-il un jardin? Où on a planté des orangers? Fleurisssent-ils?
65.Un rêve frivole! Je pactise moi même Est c’est vraiment çà? Est c’est que je me trompe? Ta sœur s’est-elle mariée l’anné passée Et l’année suivante, ce serait ta fois?
69.Je supposerais que sur le chemin d’aventure Dans une soirée pleine d’intempéries Je frapperais à une porte pour passer la nuit Et sursauterais en entendant la voix de Nhi
73.À côté de l’alambic à cette soirée Nhi m’a versé de l’alcool fraichement distillé Recommérons aux jours passés, nous sentenant un peu honteux Nous nous attendrissons et buvons ensemble
77..Je lui raconte que ma mère a décédé Moi. je reste à la maison solitairement Nhi dit ”Auparavant Maman souvent se plaisantait Nous nous formeront un couple bien assorti”
81. Puis, “Ma sœur s’est mariée l’an passé Son mari plante des orangers à côté du fleuve Moi seule habite ici, la maison est très désolée L’extétieur est plein de reflets de la lune et de vent
85.Tels que dans le conte Tương Như et Trác Thị Qui se ramènent à s’installer au district Lâm Cùng Le jardin printanỉer blanchit de fleurs d’orangers tombées Je contracterais avec Nhi comme mari et femme
89.L’acool distillé est bon grâce au ferment bien couvert Nous passionnons le monde et nous étichons nous même Chaque soir nous víisitons notre sœur Je cueulle des fléurs pour qu’elle garnisse la tête
93.Hélas! C’est l’illusion ou la vérité? Depuis longtemps, c’est la vérirté ou l’isullion? Nous nous vivons avec des fleurs et de l’alcool Vivons sur la terre et sous le ciel, l’un pour l’autre
97.Mais c’est perdu de tout, tout est illusoire Mon amour ressemble à la fleur superflue, à l’alcool à mévent C’est déjà trop loin, le jardin aux ffleurs tombées À quoi bon, se rencontrer de nouveau, c’est trop tard!
ЦВЕТЫ И ВОДКА НГУЬЕН БИНЬ 1.Холодно уж, мать перекрывает ватное одеяло Продавница водки укутывает фермент Её сестра весма маленка, а родители ранно умерли Она пьянит весь год всех знакомных покупателей
5.Её сестру, подружку мою, зовут Ньи Весь день мы вместе неспешно играем Старая сестра продает водку на базаре Вегда не забудет нам двоим купить гостинцы
9.По случаю отсутствования сестры Подражаем сестре : cобираем на саду осыпанные флёрдоранжи И их сложить в котелок, чтоб выделять духи
13.Духи, хотя не так хорошо пахнут Мы их побрыгаем на наши волосы Радовая скажем сами : Как благоухающий! Духи в городе-это чепуха!
17.Однажды у Ньи отмечали память отца Её сестра нас вызывает пить водки едва острой Кажется, что чашечка нам двоим краснела лицо И ставила нас под хмельком
21.Мы обхатывали и долго спали Без подготовки просыпали до утра Сестра нас на смех поднимала Мы смотрели друг на друга сумасбродно смеяли
25.Сестра часто шутит с моей матерью “Они, производят впечатдление хорошей пары!” Мать, cмеяь тотчас сказала как истина “Я уж имею сноху, чтоб мне помогать!”
29.В эти времена наша Родина очинь мирная Добрый парень пдружится с девственицой Мир опаництся водкой, пахнут осыпанные цветы Повсюду полно простодушнем и симпатией 33.Но затем мы быстро растади Не знают куда семя Ньи переселилась А меня Бог заставил быть поэтом Мать нас покинула когда не явилась у неё седина
37.Отставил оранжерею, отставил хижину Я ушёл с интымными отношениями с городом Душистые цветы на раю всегда мечтал Навлекаю винные дрожжи и любовную водку
41.Эта любимая водка стала ядом Земный сад следил за улетыми бабочкими с пыьцой Моя жизнь стала пустиной, истинной пустиной Цеты прекратили пахуть, а водка не пьянит
45.Я одним переношу всё горе в жизни Два, три года, затем пять, шесть лет протекли Плачу тайно когда воспоминаю об всём Крепком ферменте, клейком рисе, воде флёроранжа
49.Слишком далёко, слишкком поздно уже, Ньи Очень смущаюсь, aх моя закадычная! С тех пор, когда ты покинула нашу деревню Добрая мечта счастливое обаяние меня бросили также
53.Может быть, где-нибудь с простой хижиной Живёте благоприятно ты с сестрой Сестра перегоняет водку и ты её продаёшь Душа твоя отстаётся доброй и мечта-девственной
57.В детском возрасте ты красива была К тому же, теперь ты уже на выданье Ежемесячно десяти базарных дней Заставляешь многих в тебя влюбится
61.В посёлке, куда переселилась твоя семя имеются сколько домов Многолюдно ли причал, далёк ли рынок? Дом конорый вы сниммали имеет ли сад? На саду есть ли цветы апельсиновых деревьев?
65.Предуюсь пустым мечтам, лгу сам себя На самом деле, если это правильно ли, что Твоя cecтра вышла за муж в прошлом году На следующий год настал твой очеред?
69.Предпологаясь на скитающом пути В коем-то вечере полной непогодой Постучав в дверь кого-то чтоб ночевать Вздрогнул услышав голос оивета от Ньи
73.У перегонного аппарата в эту ночь Она наливает мне первый дистиллат Намоминаем л прошлом и смущимся С душевной болей мы вместе выпьём
77.Я ей расдазал, что мать моя умерла У нас отстался один только я Она ответила : Раньше она часто говорила “Оба мы составимся очеиь прекрасную пару”
81.”Cecтра ушла за муж в прошлом году Муж сажает оранжевые деревья на берегу Я одна живу здесь, дом очень опущенный Вне ворот полно лунным светом и ветром”
85. Похожее на рассказ о Туонг Ньи и Чак Тхи (**) Вместе переселят в дистрик Лам Кунг Упавшенные алпельсиновые цветы белят сад Мы с Ньи сочетаемся браком
89.Водка очень вкусна благодаря ферменту Опьянают людей и опьяняем друг друга Каждый вечер вместе посещаем сестру Муж рвёт цветы и их жене прикаливает к волосам
93.Увы! Это мечта или действенность? Дейсственность или Мечта долгого времени? Мы живём благодаря цветам и водке Живём взаимно под небом и на земле
97.Но это только грёза! Только иллюзия! Лишние цветы, залежная водка-это моя любовь Слишком далёк старый сад, где падали флёрдоранжи Зачем вновь встречаться, уже слишком позно! -------------------------------- (**)Талантливый поэт и красивая вдова в династии Tây Hán, Китаи
Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi, Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh, Trên con đường viền trắng mép đồi xanh, Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết. Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc; Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon, Vài cụ già chống gậy bước lom khom, Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ. Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ, Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu, Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau.
Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa, Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa, Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh, Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh. Người mua bán ra vào đầy cổng chợ. Con trâu đứng vờ rim hai mắt ngủ, Để lắng nghe người khách nói bô bô. Anh hàng tranh kĩu kịt quẩy đôi bồ, Tìm đến chỗ đông người ngồi giở bán. Một thầy khoá gò lưng trên cánh phản, Tay mài nghiên hí hoáy viết thơ xuân.
Cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm, Miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ.
Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ, Nước thời gian gội tóc trắng phau phau. Chú hoa man đầu chít chiếc khăn nâu, Ngồi xếp lại đống vàng trên mặt chiếu. Áo cụ lý bị người chen sấn kéo, Khăn trên đầu đang chít cũng bung ra. Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà, Quên cả chị bên đường đang đứng gọi. Mấy cô gái ôm nhau cười rũ rượi, Cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đa. Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha. Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết, Con gà trống mào thâm như cục tiết, Một người mua cầm cẳng dốc lên xem.
Chợ tưng bừng như thế đến gần đêm, Khi chuông tối bên chùa văng vẳng đánh, Trên con đường đi các làng hẻo lánh, Những người quê lũ lượt trở ra về. Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê, Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ.
LE MARCHÉ DU TÊT
(LE JOUR AVANT LA VEILLE DU NOUVEL ANS LUNAIRE)
ĐOÀN VĂN CỪ
Les nues blanches rougissent peu à peu au sommet des monts
Les brumes bleuâtres couvrent la crêtre des paillotes
Sur le chemin à la lisière du mont vert
Les villageois des hameaux joyeusement vont au marché du Têt
Ils marchent en files sur les herbes vertes
Les enfants aux chemises rouges trottinent autour
Quelques vieillards appuyant sur leurs bâtons marchent en se courbant
Les filles aux couvre-seins rouges cachent leurs lèvres en souriant
Le petit enfant se tapit au sein de sa maman
Deux hommes portant par fléau les pourceax marchent à la tête de la foule
Le jaune bovin curieusement les poursuit
Les rosées tombent du bout des branches telles les gouttes de lait
Les rayons rouges du soleil dansent dans les rizières
Les montagnes se fléchissent dans leurs tuniques vertes
Les collines appliquent du carmin sous les rayons de l’aurore
Les vendeurs et acheteurs entrent et sortent de la porte du marché
Le buffle reste immobile en simulant, les yeux mi-clos
Pour écouter le client qui parle à haute voix
Le vendeur des imageries populaires porte ses produits dans deux grands paniers
Cherchant l’endroit où il y a beaucoup de gens pour les vendre
Un étudiant pauvre se courbe sur l’étal
Meulant de l’encre chinois pour écrire les vers de printemps
Le vieux lettré s’arrête, tripote sa barbe en lisant
les sentences parallèles à voix basse
La vieille femme aux cheveux blanchis par le temps
Vend ses marchandises près du vieux pagodon
Le vendeur d’objets votifs en papier au turban brun
Arrange ses articles sur la natte
La tunique du maire est tirée par la foule
Se distend aussi son turban enroulé sur la tête
Les enfants s’absorbent à contempler les imageries de poule
et poussins
N’entendant pas les appels de leurs sœurs à côté du chemin
Quelques filles s’entrelaçant dans leurs bras se tordent de rire
À côté du vendeur de pétards sous le banian
Le pannier plat est plein d’oranges rouges tels enduits de carmin
Le panier de riz gluant s’entasse comme mont de neige
Un coq à la crête rouge foncée tel du sang congelé
L’acheteur prend ses pattes, le renversant pour l’admirer
Le marché est animé comme çà jusqu’au crépuscule
Quand parviennent les sons de cloche de la pagode
Sur les chemins conduisant aux agglomérations désolées
Les campagnards en files successives rentrent à leurs maisons
Les éclats du soleil couchant se trainent sur les herbes
Les feuilles tombêes du banian s’éparpillent sur la place du marché.
БАЗАРНЫЙ ДЕНЬ ПЕРЕД ТЕТ
(ПОСЛЕДНЫЙ ДЕНЬ ПРЕД НОВЫМ ГОДОМ
ПО ЛУННОВOМУ КАЛЕНДАРЮ)
ДОАН ВАН КЫ
Полоса белого облака постепенно краснеет на вершине гор
Красно-голубой туман прижимает вершины хижин
На белой опушке зелённого холма
Жители посолков оживленно идут на базар Тêта
Они весело толпами идут на зелёной траве
Малчики в красной рубашке бегут вокруг
Несколько стариков на палках шагают согнувши
Девушки на красном лифчике. заcлонясь рукой рот, тихо смеются
Ребёнок прижимает на груди матери
Два крестьянина, нося свои свиньи, бегут впереди
Жёлтая корова забавно их преследует
Белая роса падает с вершины ветви как капли молока
Лиловый солнечный луч как танцует над рисовом поле
Горы крутятcя в зелённой тунике
Холмы краснеют красмином под лучами утренной зари
Продавцы и купатели проталкиваются на вороте базара
Буйвол притвораясь и слипаться глаза как спит
Чтоб слышать покупателей, что громко говорят
Продавец лубоков носит коромысло с двумями
коробами
Ищя где много людей, чтобы продавать их продукты
Бедный студент сгибается на стол
Истерает китайский тушь и старательно пишет вешние стихи
Учредитель китайских иероглифов остатовив, гладя свою бороду
Читает про себя неслоьео красных парных изречений
Старушка c белой шевелюрой продаёт свои продукты рядом со старым храмом
Призводитель обрядовых предметов из бумаги с бурым
тюрбаном
Раставляет свои продукты на цыновке
Толпа тащит тунику селской головы
Распускается назвязанный тюрбан на голове тоже
Малчики смотрят рисунки наседку и её цыплят
Забывая призывы своих сестёр
Несолько девушек обнимаяcь хохотают до упаду
Рядом с продавца петард под баньяном
Корзины полные красными как кармин алпельсинами
Корзины клейского риса видны как снежные горы
Петуха с красном гребешком как сгуток крови
Купатель возмёт лапы их, опрокидывая его чтоб расмотреть
Ngày gửi: 22/03/2017 18:22 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi hongvan28 vào 22/03/2017 18:33
VIEIL AMOUR
Vingt quatre années auparavant,
Une nuit ou déferlaient et la pluie et le vent,
Sous une lampe pâle,dans un petit compartiment,
Deux jeunes têtes approchées lamentaient en soupirant;
“Oh!Notre amour réciproque est toujours formidable,
Pourtant,nous ne pouvons pas nous marier !
De ca, triste conséquence:d’abord ,amour;après, rupture!
C’est pourquoi:mieux vaut nous séparer tôt!
Oh!mais tellement ingrats sont ces mots!
Aurons –nous le coeur de nous quitter l’un l’autre?
Aimons-nous donc passionnément tant que possible,
Tout simplement,c’est parce que le Ciel nous force à supporter ce supplice!
Nous ne sommes qu’amants,mais non époux,
Pour parler de la fidélité éternelle”
*
* *
Vingt quatre années après,
Nous nous rencontrons par hasard à l’étranger,
Une paire de têtes aux cheveux tout blancs.
Si ce n’étaient pas vieilles connaissances,
Je parie:nous serions incapables de nous reconnaitre!?
Ce n’est que revision de l’histoire.
Déjà nous nous avons reconduit l’un l’autre,en nous quittant des yeux,
Tandis que nous nous suivons encore,encore,.. les yeux troublés!...
Poème TÌNH GIÀ de PHAN KHÔI
Traduction de TRỊNH PHÚC NGUYÊN
TÌNH GIÀ
(Phan Khôi)
Hai mươi bốn năm xưa,
một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
hai cái đầu xanh kề nhau than thở;
- "Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
mà lấy nhau hẳn đà không đặng:
Để đến nỗi tình trước phụ sau,
chi bằng sớm liệu mà buông nhau!"
- "Hay nói mới bạc làm sao chớ!
buông nhau làm sao cho nỡ?
Thương được chừng nào hay chừng ấy,
chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng,
mà tính chuyên thuỷ chung!"
*
Hai mươi bốn năm sau,
tình cờ đất khách gặp nhau:
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung,
đố có nhìn ra được?
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
con mắt còn có đuôi.
1932
Bài thơ này đăng trên tờ Phụ nữ tân văn số 122 ra ngày 10-3-1932 trong bài viết Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ. Đây là bài thơ khởi xướng đánh dấu sự ra đời của phong trào Thơ mới.
OLD LOVE
(Poem by Phan Khôi - Translation by TMCS)
One night of twenty four years ago,
When it was windy and rainy,
A young man and a young lady,
Shoulder to shoulder
In a small chamber,
And in the dim light of a lamp
Lamented together
Over their love.
“As the saying often goes: What a terrible disloyalty!
But in all sincerity, how can we live separately !
As passionately as possible, we love each other,
However so God decides our destiny.
We are only lovers but not spouses
Therefore how can we talk about fidelity!”
Twenty four years passed,
Our hairs have turned grey.
We meet each with other unexpectedly In a very far-off area,
Tôi viết bài thơ NGHĨ VỀ CÕI BIẾC, sau khi đi viếng tang hai bạn thơ lớn tuổi (tuổi 93 và 91.). Ban Trịnh Phúc Nguyên cảm xúc và viết bài thơ bằng tiếng Pháp gửi cho tôi (ENSEMBLE NOUS PENSONS AU MONDE BLEU ET PROFOND). Tôi rất xúc động nên viết bài thơ tiếng Pháp sau đây tặng lại anh Nguyên. Xin kính gửi các bạn thơ cùng đọc. Rất thân kính,
PHAN HOÀNG MẠNH (Ngày 29-3-2017)
NGHĨ VỀ CÕI BIẾC
Sau khi viếng tang hai bạn
Đỗ Thị Thận và Chu Giao
Vừa mới tiễn đưa hai bạn già về Cõi,
Đêm bâng khuâng suy nghĩ chuyện đất trời…
Từ thuở chôn nhau, được sống kiếp người
Có trí tuệ, du hành trong cõi thế…
Tuổi đã chín hai, cuộc đời dâu bể,
Giữ vẹn trung trinh với sông núi cỏ cây.
Chỉ hạt cát thôi, nhưng nhiệt huyết luôn đầy,
Tâm nóng hổi với tiền đồ nước Việt…
Trước linh cữu, đứng cúi đầu tiễn biệt
Bạn nằm kia trong hương khói lung linh…
Đã hiểu lâu rồi quy luật tử sinh,
Vẫn xao động, ngậm ngùi, nhớ tiếc…
Rồi đến ngày ta bay về cõi biếc,
Trong lễ tang. đông bạn đến chào ta,
Con cháu đứng quanh, mắt lệ thẫn thờ,
Ta sẽ ra đi nhẹ nhàng về Chốn Ấy…
Chắc vẫn nhớ đất trần gian để lại,
Nhưng tâm hồn thanh thản lúc ra đi.
Vượt tuổi chín mươi, nào còn vấn vương gì?
Chào các bạn, mắt ta cười vĩnh biệt…
Ngày 23-3-2017 PHAN HOÀNG MẠNH
ENSEMBLE,NOUS PENSONS AU
”MONDE BLEU PROFOND”
A mon ami PHAN HOÀNG MẠNH
J’ai lu ton poème”Vers le monde bleu profond”,
Je me sens aussi le coeur troublé,l’esprit pensif,
Toi et moi,venons de reconduire notre soeur-poète,*
Tu n’as”que” quatre-vingt douze ans,
Tandis que moi,”déjà” quatre vingt quatorze’..
Comme toi,je médite mélancoliquement,
Presque toute ma vie,de tout mon corps et âme,
J’ai servi notre Patrie,dans l’armée,
Bons et mauvais souvenirs de la vie militaire j’ai conservé,
J’ai l’esprit calme et l’âme tranquille en tant que retraité,
Que le reste de ma vie soit long ou raccourci,
Toujours optimiste,je ne me sens jamais isolé!
Vieillissons donc toujours en beauté!
“Vieillir en beauté”,c’est vivre avec l’espoir,
Etre content de soi en se couchant le soir,
Et lorsque viendra le moment d’aller au”monde bleu profond”,
C’est le moment de ne recevoir,
Se dire”qu’au fond,ce n’est qu’un au-revoir…”
*l’institutrice-poétesse Đỗ Thị Thận
Hanoi le 27/Mars/2017
TRÌNH PHÚC NGUYÊN
OUI, CE NE SERA QU’UN AUREVOIR
RÉPONSE À MON AMI TRỊNH PHÚC NGUYÊN
Bien remué mon cher, de recevoir ta lettre,
Ta communion émue, ton poème sincère.
C’est pour nous un bonheur de voir ainsi renaître
Notre coeur combattant pour notre chérie terre.
Dépasser quatre-vingts et vieillir en beauté,
Garder l’âme fraîche le long de la vieillesse,
Composer des poèmes dans sa longévité.
Et toujours optimiste comme dans la jeunesse.
Nous avons toute la vie servi de tout le coeur
La grande cause sacrée de la chère Patrie.
Aspirer pour le peuple un avenir meilleur
Et vieillir guilleret, enivré de poésie.
“Et un jour, s’en aller sans trop causer d’alarmes” (*)
Les adieux de nos proches, c’est beaucoup recevoir.
Dire à nos chers enfants:” Ne versez pas de larmes!”
Ngày gửi: 12/01/2018 16:46 Đã sửa 2 lần, lần cuối bởi hongvan28 vào 12/01/2018 16:52
Dịch bài: GIAO THỪA THUỶ TIÊN HOA KHAI NGẪU ĐẮC ( Kỳ 1)
Dịch ra tiếng Việt:
HOA THUỶ TIÊN NỞ LÚC GIAO THỪA NGẪU NHIÊN LÀM. (KỲ 1)
Thân này ở Hải Đảo, Bồng Lai Có sao đội tuyết giậu này nở hoa Nhà nghèo không có lịch mà Nên tin vui báo xuân đà sắp sang.
En Français:
LES NARCISSES QUI FLEURISSENT AU NOUVEL AN (Impromptu poétique)
Vivant à Hải Đảo, Bồng Lai Pourquoi tu fleuris sur la haie, sous la neige. Aux gens pauvres qui n’ont pas de calendrier Tu viens pour annoncer l’arrivée du Printemps.
HOA THUỶ TIÊN NỞ LÚC GIAO THỪA NGẪU NHIÊN LÀM (Kỳ 2)
Phong nhã, thanh tao, cốt cách mà Trong như sương, thanh đạm như hoa. Thương là chưa thoát vòng tình ái Với cõi trần, năm tháng thiết tha.
En français:
LES NARCISSES QUI FLEURISSENT AU NOUVEL AN (Impromptu poétique)
Elégant et raffiné c’ est leur maintien. Pures comme la rosée, raffinées comme les fleurs d’ abricotier. C’ est pitié qu’ elles ne peuvent pas se détacher de l’ amour. Sur le monde terrestre, elles reviennent chaque année..
Bơi vào đi, Vàng ơi, tao về đây Đừng ra xa, thân thể mày bé lắm Sóng thì to, nước biển kia rất mặn Mày cứ bơi ra, tao sao thể cầm lòng... Bơi vào đi, Vàng ơi, có nghe không Mày quyến luyến làm lòng tao chợn sóng Đại dương mênh mông, thân thể mày bé bỏng Cứ ngước về tàu, sao tao thể cách xa... Bơi vào đi, Vàng ơi, quay lại nhà Tao phải về thôi bởi đã xong nghĩa vụ Và tao biết đêm qua mày mất ngủ Cứ liếm tay tao, sợ trốn mày về. Đừng vậy nữa mà, Vàng ơi, tao thương quá Thương những đêm tao và mày đứng gác Gió bão từng cơn mày vẫn không sai khác Phủ phục canh me bọn cướp biển chực chờ. Về đi mày, đừng bơi nữa, tao nhờ Tao xin lỗi, bởi đã xong nghĩa vụ Và tao biết chừng ấy vẫn chưa đủ Nhưng phải vào bờ, anh em khác ra thay. Về đi mày, đừng bơi nữa, mắt cay...
Dịch ra thơ Pháp: Trịnh Phúc Nguyên 95 tuổi.
La revue Jeunesse présente aux lecteurs le poème ci-joint, une combinaison merveilleuse Poésie-Photographie: Ile Trường Sa, et le poème qui”brule”les yeux de beaucoup de monde”
NAGES DE RETOUR AU RIVAGE, O VÀNG!
Nages de retour au rivage, o Vang chéri chiot, me voici de retour, Ne nages pas au large, ton corps est si petit, La mer est houleuse, l’eau de mer est très salée, Tu vas toujours au loin, que ne puis-je me retenir. Nages de retour au rivage, o Vang,ne m’entends-tu pas? Tu m’affectionnes tant à faire troubler mon coeur, La mer est immense, ton corps est chétif, Tu tournes toujours tes yeux au bateau, Comment pourrais-je m’éloigner de toi! Nages de retour vers l’ile, ton domicile, Je dois rentrer car j’ai accompli mon devoir, Et je sais bien que la nuit d’hier, tu n’as pas dormi. Léchant, léchant sans cesse ma main, De peur que je m’esquive à ton insu, Ne fais pas encor tout ca, o Vang, Que je m’apitoie tellement sur toi! Je me souviens des nuits où toi et moi étions en garde, Déferlaient des rafales de tempête,tu restait indifferent Nous nous étions en embuscade, attendant les pirates marins; Retournes chez toi o Vang, je t’en prie! Pardonnes moi, car j’ai achevé ma mission, Et je sais bien que tout cela encore ne suffit pas, Mais je dois rentrer, autres camarades me remplaceront, Retournes donc, Vang Ne nages plus au loin! Mes yeux “brulent”…
Poème”BƠI VÀO ĐI, VÀNG ƠI” de Hoàng Hải Lý,poète Traduction de Trịnh Phúc Nguyên