Y thực công danh thuỳ phục nhàn Xuất môn tiện tác vạn trùng san. U cư hảo sự quân tri phủ Hiểu bả trà âu nhất tiếu khan
Dịch sang tiếng Việt
VIẾT Ở PHÒNG VĂN NHÀ BẠN
I- Công danh cơm áo có ai nhàn? Ra ngõ gặp ngàn núi chắn ngang. Ơi bạn, có gì hơn ở ẩn, Trà mai, sách đọc, cười nhân gian. II- Nợ đời: cơm áo, công danh! Ra đường vấp vạn núi thành chắn ngang, Sao bằng sống ẩn quê làng, Nụ cười, trà sáng, đọc trang sách đời.
Phan Hoàng Mạnh Dịch sang tiếng Pháp
POÈME ÉCRIT DANS LA SALLE D’ETUDE DE L’AMI
I Personne n’est libre dans les entraves de la vie matérielle et de la course aux honneurs, La porte franchie, on se heurte aux montagnes de difficultés. Cher ami, rien n’est meilleur qu’une vie retirée Avec une tasse de thé matinale et des livres pour rire du monde.
II- Des entraves de la vie, personne n’est libérée, Dès qu’on franchit le seuil, c’est plein de difficultés. Rien n’est meilleur, mon cher, qu’une vie retirée. Un livre, un sourire et une tasse de thé.
Phan Hoàng Mạnh
BỒN TỐ DẠ BẠC Cao Bá Quát
Đả thuỷ lũ kinh sa ẩn hiện Chiêm sơn phạ thất lộ tung hoành. Hoãn xuy liệu đắc nam phong ý Tử tế giao nhân mạn mạn hành.
Dịch sang tiếng Việt
ĐÊM ĐẬU THUYỀN Ở BỒN TỐ
I- Đi thuyền, sợ thấy cồn ẩn hiện, Ngắm núi, lo đường lạc dọc ngang, Hiểu được ý làn nam thổi nhẹ, Chậm chân, cẩn thận bước trên đường. II- Đi thuyền sợ mắc bãi cồn, Ngắm non sợ lạc đường dồn dọc ngang. Hiểu lời ngọn gió nhẹ nhàng, Khuyên ai cẩn thận, vội vàng chẳng nên.
Dịch sang tiếng Pháp
AMARRER LA BARQUE À BỒN TỐ LA NUIT
I Voguant sur l’eau, on a crainte des javeaux imprévus de sable Contemplant les monts, on a peur des labyrinthes des sentiers. Comprenant l’intention de la légère brise du midi, On sera plus précautionneux et chemine lentement sur les chemins. II Sur l’eau, on a crainte des javeaux imprévus, Sur les monts, on a peur des labyrinthes inconnus. Si l’on comprend le sens de la brise légère, On sera plus attentif et ne se hâte guère. Phan Hoàng Mạnh
Bắc khứ Hoành Sơn quy lộ phân Kinh vân dao tiếp cố hương vân. Biệt lai bất trước Tô giang mộng Do hướng Hoành Sơn vọng sứ quân.
Dịch sang tiếng Việt TIỄN BẠN HOAN LẠC NGUYỄN XUÂN TRAI ĐI NHẬM CHỨC (Bài 1)
I- Phía bắc Hoành Sơn đường rẻ lối Mây quê tiếp với mây kinh thành. Xa nhau, chẳng mộng về Tô Lịch Hướng phía Hoành Sơn vọng nhớ anh.
II- Bắc Hoành Sơn, đường rẻ chia, Mây kinh thành nối mây quê hương nhà. Chẳng mơ Tô Lịch sông xưa, Nhớ về bạn cũ khuất mờ Hoành Sơn.
Dịch sang tiếng Pháp: ADIEU AVEC HOAN LẠC NGUYỄN XUÂN TRAI PARTANT POUR SON NOUVEAU POSTE
I Au nord de Hoành Son, le chemin se divise. Les nuages de la capitale se mêlent à ceux du village Depuis lors, on ne rêve plus au fleuve Tô Lịch Et ne pense qu’au vieil ami dans la direction de H Hoành Son. II Version rimée Le chemin se divise au nord de la Chaîne Transversale. Les nuages de la capitale Se mêlent à ceux de la contrée natale. Au fleuve To Lich, on ne rêve plus depuis lors, Et ne pense qu’à l’image amicale Dans la direction du Nord.
Phan Hoàng Mạnh
KÝ TIỄN PHÓ LỴ (Kỳ nhị)
Bồi phong tiệm dục đáo thanh minh Tảo tín xương thân dĩ đức minh. Kiến thuyết thử bang phú danh tích Trữ khan quy khiếp thị đồ kinh.
Dịch sang tiếng Việt GỬI TIỄN NGƯỜI ĐI NHẬM CHỨC (bài 2) I Nhờ gió đưa anh đến cõi xanh Tin anh đạo đức vững thanh danh. Nghe đồn chốn ấy nhiều danh tích, Chờ đón tráp đầy sách với tranh. II Gió đưa bay tới trời xanh Tin anh đạo đức thanh danh vững vàng. Chốn này danh tích đồn vang, Chờ xem tráp có tranh vàng sách hay.
Dịch sang tiếng Pháp A L’AMI PARTANT POUR SON NOUVEAU POSTE
I Avec le vent aidant, vous vous envolez vers le ciel bleu On a foi en votre vertu qui fait votre grand renom. De cette contrée réputée de célèbres oblets de valeur, Quels beaux livres et tableaux pourrait-on attendre à admirer dans votre malle au retour? IIVersion rimée Avec le vent aidant, vous plannez dans les cieux. Limpide de vertu ayant un grand reflet, De ce pays réputé de célèbres objets On attend de beaux livres et tableaux merveilleux. Phan HoàngMạnh
HÀNH QUÂN TỪ (KÌ NGŨ) CAO BÁ QUÁT Lưỡng gian chinh chiến vị luân công Bán ỷ ngưu bì bán quải cung Khê thảo sơn mao tam nguyệt vũ Nông gia dao tại Hải Vân đông
Dịch nghĩa :
BÀI TỪ HÀNH QUÂN (Bài V) CAO BÁ QUÁT Giữa hai đợt chiến trận chưa bình công Một nửa khoác da trâu, một nửa gác cung (*) Cỏ khe, lau núi dầm dề mưa tháng ba Nhà còn ở xa tận phía đông Hải Vân ----------------- (*) Ý là bãi bỏ chinh chiến. (Thực ra mới là tạm ngừng sau trận đánh)
BÀI TỪ HÀNH QUÂN (V) CAO BÁ QUÁT Sau trận đánh, chửa bình công Nửa mang áo giáp, nửa cung treo rồi Dầm dề khe, núi mưa rơi Hải Vân đông ấy, chính nơi quê nhà.
Giữa hai trận đánh, chửa bình công Áo giáp nửa mang, nửa gác cung Khe, núi tháng ba mưa chẳng dứt Nhà còn xa lắm, Hải Vân đông!
MOUVEMENT DES TROUPES (V) CAO BA QUAT On ne dispute pas encor de mérites entre deux combats La moitié du garnison porte des cuirasses, l’autre pend les arcs Au troisième mois il pleut sans cesse sur monts et ravins On pense toujours à sa demeure à l’est de Hai Van, si loin
ПОХОДНАЯ ПЕСНЯ (V) КАО БА КУАТ Меж двумя боями пока не отценивают подвиги Половина гарнизона носит латы, другая весит луки В третьем месяце дожь идёт на горы и овраги непрерывно Думают о своих домах направо от Хайвана, далело.
HÀNH QUÂN TỪ (KÌ LỤC) CAO BÁ QUÁT Thuyết lễ đôn thi Tấn lưỡng khanh Phong lưu tịnh đới lệ nhân hành Quân trung tân chế nao ca khúc Dạ nguyệt sương cao Tế Liễu doanh
Dịch nghĩa
BÀI TỪ HÀNH QUÂN (Bài VI) Thuyết giáo về lễ, gắng sức về thơ là hai khanh sĩ đời Tấn (*) Phong lưu đều có mang người đẹp đó theo Trong quân chế ra những khúc ca nhạc mới Đêm trăng sương từ trên cao phủ xuống doanh Tế Liễu -------------------- (*) Phỏng đoán một trong đó là Nguyễn Tịch.đọc nhiều sách hiểu nhiều về Lão Trang, hát hay,đàn giỏi, thích rượu. Nghe tin đầu bếp Bộ Binh ủ rượu ngon nên xin làm Hiệu Úy Bộ Binh.
BÀI TỪ HÀNH QUÂN (VI) CAO BÁ QUÁT Hai quan đời Tấn khi xưa Mang theo người đẹp làm thơ, giảng bài Trong quân sáng tác, trăng phơi Trên doanh Tế Liễu sương rơi mịt mờ.
Làm thơ, thuyết giáo đời nhà Tấn Người đẹp hai quan vẫn rước theo Sáng tác trong quân ca khúc mới Trên doanh Tế Liễu nguyệt, sương treo.
MOUVEMENT DES TROUPES (VI) CAO BA QUAT Deux dignitaires de la dynastie des Tan Prêchent des convenances et composent des nouvelles chansons Accompagnés des belles dans le garnison Sous le clair de lune et la brume sur Te Lieu, le camp.
ПАХОДНАЯ ПЕСНЯ (VI) КАО БА КУАТ Два санновника династии Тана Проповедуют приемлемости и сложат стихи Сопровождаясь красавицами, творят новые песни Под луне, в тумане над гарнизоном Те Льеу.
Leo lét đèn tàn mơ đất khách Trăm năm tâm sự ngỏ cùng ai? Trời già chẳng giúp ta phương tiện Mù mịt, mênh mang một khoảng trời.
Traduit en français:
A l' auberge de la cité Tiên.
Devant la lampe solitaire tremblottante, sur une contrée étrangère, le rêve se fane. Les sentiments intimes ne peuvent être exprimées Le vieux ciel jamais ne m' accorde un seul moyen Sous un firmament immence si vague, si sombre.
Ở nhà trọ thành Tiên (2)
Buồn vui, tan hợp ngỏ cùng ai? Thân gió bụi đường, vạn dặm dài Năm tới ở đâu, chưa đoán biết Tấm lòng băng tuyết, bóng gương soi.
Traduit en français:
A l' auberge de la cité Tiên
Joies et peines, rencontres et adieux, à qui peut-on les confier? Un sort poussiéreux s' achemine sur un long trajet. Sur l' année prochaine, on n'a pu rien savoir Seule une âme pure se reflète dans le miroir.
Lòng em như quán bán hàng Dừng chân cho khách qua đường mà thôi Lòng anh như mảng bè trôi Chỉ về một bến, chỉ xuôi một dòng. Lòng anh như biển sóng cồn Chứa muôn con nước nghìn con sông dài. Lòng em như chiếc lá khoai Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu. Lòng anh như hoa hướng dương Trăm nghìn đổ lại một phương mặt trời Lòng em như cái con thoi Thay bao nhiêu suốt mà thoi vẫn lành.
PHAN HOÀNG MẠNH dịch sang tiếng Pháp: TOI ET MOI
Ton âme est comme une boutique Ou s'arretent sans distinction tous les passnts, Mon âme est comme un radeau flottant sur un seul courant Qui n’accoste jamais qu’à un ambarcadère unique.
Mon âme est comme une mer houleuse Qui reçoit mille eaux de mille longs fleuves, Ton âme est comme une feuille de taro Sur où toute l’eau versée s’écoule aussitôt.
Mon âme est comme une fleur de tournesol Qui toujours se tourne vers la direction du soleil, Ton âme est comme une navette Qui reste toujours intacte malgré tant de changements de canettes.
Trăng lên trong lúc đương chiều, Gió về trong lúc ngọn triều mới lên. Thuyền đi sông nước ưu phiền Buồm treo ráng đỏ dong miền viễn khơi
Sang đêm thuyền đã xa vời Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn. Canh khuya tạnh vắng bên cồn Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang(*)
Thuyền người đi một tuần trăng, Sầu ta theo nước tràng giang lửng lờ. Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ, Trông nhau bửa ấy bây giờ nhớ nhau.
*Nhớ đêm trăng Cửa Lở (Tam Kỳ-Quảng Nam), tháng 6-1948
LA BARQUE S’EN VA
La lune s’élève juste à la tombée de la nuit. Le vent revient au début de la marée montante. La barque part, le fleuve reste avec ses ennuis, La voile s’en va au large, gonflée dans le halo rougeoyant.
Passe la nuit. La barque est déjà bien éloignée. L’homme à l’embouchure ressent toute la froidure mélancolique. La nuit large et paisible s’étend sur les dunes dếsertes, La lune s’étale sur les grèves isolêes Et l’eau afflue dans son immensité.(*)
Ta barque est partie depuis bientôt un mois. Ma tristesse suit le cours du grand fleuve nonchalant. À l’adieu, on se sont échangé la promesse de se revoir, Se quitter ce jour-là, comme on se manquent maintenant!
* * Remémoration de la nuit de Juin 1948 inondée de lune sur la plage Cửa Lở-Quảng Nam
Ấp úng không ra được nửa lời Tình thu bi thiết lám thu ơi! Vội vàng cánh nhạn bay đi trớt Hiu hắt hơi may thoảng lại rồi. Nằm gắng đã không thành mộng được Ngâm tràn cho đỡ chút buồn thôi. Ngàn trùng bóng liễu trông xanh ngắt Cảnh sắp về đông mắt lệ vơi.
TRISTESSE D’AUTOMNE
Bredouillant, on n’a pu lâcher aucune parole. Ô Automne, que mon amour passionné por toi est si triste! Bien en hâte, l’hyrondelle s’en est lestement envolée, Très doucement, le souffle de vent roux est déjà revenu, Prolonger à rester couché n’aidant nullement à rêver, On déclame les vers sans façon pour quelque peu alléger sa mélancolie. Les saules sur mille verstes apparaissent fraîchement verts, Devant le temps qui va passer à l’hiver, les yeux restent de larmes désemplis.
ĐÊM KHÔNG NGỦ Hàn Mặc Tử
Non sông bốn mặt ngủ mơ màng Thức chỉ mình ta dạ chẳng an. Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối, Gió thu lọt cửa cọ mài chăn. Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ, Buồn giúp công danh dế dạo đàn. Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.
NUIT SANS SOMMEIL
De tous côtés, la nature en rêve s’endort. Seul moi ne puis dormir, le coeur tout remué. Le clair de lune traverse les barreaux et palpe l’oreiller, Le vent d’automne s’infiltre à travers la porte et frotte la couverture. Aidant à pleurer son propre sort, les fleurs sont en larmes Ayant compassion pour sa vie sans gloire, les grillons jouent leurs mélodies. Se relevant sur son séant, on récrit quelques anciens refrains, Durant les cinq veilles, les troublements intimes ne se dissipent pas.
MÙA XUÂN CHÍN Hàn Mặc Tử
Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lý bóng xuân sang.
Sóng cỏ xanh tươi rợn tói trời Bao cô thôn nữ hát trên đồi. -Ngày mai trong đám xuân xanh ấy Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi!
Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi, Hổn hển như lời của nước mây, Thầm thĩ với ai ngồi dướí trúc, Nghe ra ý vị và thơ ngây.
Khách xa gặp lúc mùa xuân chin Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng -Chị ấy năm nay còn gánh thóc Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
UN PRINTEMPS MUR
Dans la lumière du soleil levant, la brume de rêve se dissipe, Sur quelques toits de chaume, dansent des pointillements dorés. Le vent de son frou-frou taquine les pans de robe verte, Sur la treille de liserons(?), le printemps arrive.
Les vagues d’.herbes fraîches ondulent jusqu’à l’horizon Sur la colline, chante un groupe de paysannes. - Demain, dans cette communauté de jeunes filles, Il y aura quelqu’une qui suivra son époux, abandonnant le jeu.
Les chants planent tout haut sur le versant de la montagne, Halètent comme les paroles des eaux et des nues, Et chuchottent avec ceux qui s’assoient sous les bambous, Apportant un sens charmant et ingénu.
L’étranger qui vient au temps du mûr printemps A l’âme vaguement remplie de la nostalgie du village. - La belle d’antan, continue-t-elle à transporter du paddy Le long de la berge blanche surchauffée sous le soleil ardent?
Vua Thành Thái, tên là Nguyễn Phúc Bửu Lân (1879-1956). Lên ngôi năm 1889. Năm 1807, bị Pháp truất ngôi, đưa an trí ở Vũng Tàu, sau đó đày sang đảo Réunion. Năm 1947, được cho về nước, sống biệt lập ở Sài Gòn và mất năm 1956. Bài thơ này, vua làm năm 1902, lúc ra Hà Nội dự lẽ khánh thành cầu Doumer.
Võ võ văn văn ỷ cẩm bào Trẫm vi thiên tử độc gian lao. Tam bôi hoàng tửu – quần lê huyết, Nhất trản thanh trà – bách tính cao. Thiên lệ lạc thời – dân lệ lạc, Ca thanh cao xứ - khốc thanh cao. Can qua thử hội hưu đàm luận, Lân tuất thương minh phó nhĩ tào..
Dịch nghĩa
Các quan văn vỏ mặc áo bào gấm Riêng ta là thiên tử chị gian khổ một mình. Ba cốc rượu vua là máu của nhân dân, Một chén trà thanh là cao của bách tính. Mưa trên tròi xuống là nước mắt của dân Tiếng hát càng cao, tiếng khóc càng lớn. Khoan bàn chuyện vì đâu ra tình cảnh này, Biết có ai gần gũi để gửi nỗi lòng!
Dịch sang tiếng Việt
MÔT BÀI THƠ CỦA VUA THÀNH IHAI
Quan hầu văn võ áo xênh xang, Thiên tử riêng ta ngậm hận tràn. Ba chén rượu vua – dân máu đỏ, Một chung trà ngự - cốt dân tàn. Mưa trời tuôn xuống – Dân tuôn lệ, Khúc hát ngân cao – tiếng khóc vang. Chưa tính vì đâu non nước luỵ, Biết gửi cùng ai nỗi uất hờn!
Dịch sang tiếng Pháp
UN POÈME DU ROI THÀNH THÁI
Les mandarins civils et militaries sont bien beaux dans leurs costumes de brocart, Seul moi, l’empereur, reste solitairement peiné. Trois coupes de vin royal – c’est du sang de la masse. Une tasse de thé de la Cour – c’est la gelatine concentrée des corps du peuple. La pluie du ciel, ce sont les larmes de la population, Les beaux chants dans le palais, ce sont de grands pleurs et cris! Ne discutons pas encore sur la raison de l’état actuel du pays. A qui donc pourrais-je confier mes profonds tourments?
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì Họa đường thiên ảnh mộ vân phi Khách lai bất vấn vô nan sự Cộng ỷ lan can khán thúy vi.
Cảnh xuân
Trong bụi dương liễu hoa dày, chim thong thả hót, Trên bóng thềm nhà kẻ vẽ đẹp, mây chiều bay qua. Khách đến không hỏi về việc trong cõi người, Chỉ cùng nhau dựa lan can ngắm núi non xa thẳm.
Dịch thơ:
Cảnh xuân Thơ TRẦN NHÂN TÔNG
Bài 1:
Trong rặng liễu dày hoa, chim thỏ thẻ. Áng mây chiều bảng lảng bóng in thềm. Khách đến chơi không bàn chi thế sự, Ngắm cảnh trời xanh, cùng tựa lan can.
Bài 2:
Rặng liễu dày hoa Tiếng chim thỏ thẻ Mây chiều trôi nhẹ In bóng trên thềm Khách đến chơi thăm Không bàn thế sự Lan can cùng tựa Ngắm cảnh trời xanh.
Traduit en français:
Panorama printanier Dans les saules pleins de fleurs, les oiseaux gazouillent. L' ombre des nuages du soir passe, se dessine si beau sur le perron. Les visiteurs venus, on ne discute pas des affaires humaines. S' appuyant à la balustrade, on contemple le panorama bleu d' alentour.